Phân tích bài thơ Cảnh khuya - Hồ Chí MinhHồ Chí Minh là một lãnh tụ cách mạng thiên tài của dân tộc nhưng đồng thời, Người cũng là một nhà thơ sánh vai cùng những thi nhân của Đông Tây kim cổ
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
Dàn ý 1. Mở bài - Giới thiệu khái quát về tác giả Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ tài ba vĩ đại của dân tộc Việt Nam, lại vừa là một nhà thơ xuất sắc. - Giới thiệu về bài thơ “Cảnh khuya”: Bài thơ được sáng tác vào những năm kháng chiến chống Pháp. Khi ấy Hồ Chí Minh còn đang lo cho các cuộc đấu tranh chống lại thực dân Pháp. Vì không ngủ được nên Bác bầu bạn với thiên nhiên. Bác đã viết lên bài thơ này. 2. Thân bài a. Bức tranh thiên nhiên cảnh khuya nơi chiến khu Việt Bắc - Bức tranh thiên nhiên giống như một bức tranh động chứ không phải bức tranh tĩnh. - Mở đầu bằng âm thanh của tiếng suối: tiếng suối trong rừng xa xa vọng lại như tiếng hát của người con gái trong trẻo ngân vang. + Ở đây ta nhận thấy sự thay đổi của tiêu chuẩn cái đẹp: trước kia thiên nhiên làm chuẩn mực để nói về vẻ đẹp của con người (biện pháp ước lệ tượng trưng); còn trong thơ Bác, con người làm chuẩn mực để chỉ cái đẹp của thiên nhiên (Tiếng suối như tiếng hát). + Tiếng suối róc rách êm tai trong trẻo như tiếng một cô gái đang hát. + Ánh trăng đêm khuya tạo thành những bóng hoa trên mặt đất. + Điệp từ “lồng” nhấn mạnh vào sự xuyên tỏa của ánh sáng trăng khuya. ⇒ Cảnh vật thiên nhiên hiện lên mang vẻ đẹp của sự trầm mặc, huyền ảo của ánh trăng khuya. Nó không chỉ có màu sắc vàng yên ả mà nó còn có âm thanh của tiếng suối chảy róc rách trong trẻo như tiếng hát vọng lại từ phía xa. b. Tâm trạng nhà thơ - Câu thơ thứ ba có dấu phẩy ở giữa như cắt ngang hai sự đối lập nhau. - Đối với thiên nhiên hiền hòa lung linh yên bình đẹp như vẽ kia là tâm trạng của nhà thơ. Đó là một tâm trạng đầy bất trắc, âu lo không yên bình. - Người vẫn chưa ngủ, chỉ có chưa ngủ thì mới có thể tả hết được cảnh đẹp đêm khuya được. - Không phải người thức để ngắm cảnh mà vì Người đang lo nỗi nước nhà. ⇒ Trái ngược với sự hài hòa của thiên nhiên là tâm trạng đầy âu lo của nhà thơ, lo ngày mai chiến tranh, lo ngày mai có giành được độc lập cho dân tộc hay không. 3. Kết bài - Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ + Nội dung: vẻ đẹp đêm trăng rằm tháng giêng ở Tây Bắc và tình yêu thiên nhiên, lòng yêu nước và phong thái ung dung, lạc quan của Bác + Nghệ thuật: thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, hình ảnh thơ mang màu sắc cổ điển mà bình dị, gần gũi… - Bài thơ vừa vẽ lên bức tranh thiên nhiên tại chiến khu Việt Bắc hiền hòa với màu sắc của ánh trăng, sống động trong trẻo với âm thanh của tiếng suối, lại vừa thể hiện tâm trạng âu lo của nhà thơ qua đó thấy được tấm lòng đối với thiên nhiên và con người của nhà thơ vĩ đại. Bài mẫu 1 Hồ Chí Minh là một lãnh tụ cách mạng thiên tài của dân tộc nhưng đồng thời, Người cũng là một nhà thơ sánh vai cùng những thi nhân của Đông Tây kim cổ. Trong những năm tháng chiến đấu chống Pháp gian khổ của dân tộc, bên cạnh những chủ trương, chiến lược đánh đuổi giặc tài tình, Người còn có những vần thơ khiến lòng người rung động. “Cảnh khuya” là một thi phẩm trong số ấy: Tiếng suối trong như tiếng hát xa Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà. Bài thơ ra đời giữa lúc cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta đang hồi gay go, quyết liệt: năm 1947. Trên chiến khu Việt Bắc, sau những giờ phút mỏi mệt, trong cảnh đêm của núi rừng, Người bồi hồi xúc động trước cảnh đêm khuya êm ái. Điều đầu tiên Bác cảm nhận được nơi thiên nhiên hoang sơ là tiếng suối róc rách tuôn theo dòng chảy: Tiếng suối trong như tiếng hát xa Lối so sánh của Bác thật kì lạ! Tiếng suối vốn được cảm nhận bằng thính giác nhưng nghe tiếng suối, Người cảm nhận được độ “trong” của dòng chảy. Dòng suối ấy hẳn rất ngọt lành, trong mát, đó hẳn cũng là thứ quà riêng mà thiên nhiên núi rừng ban tặng riêng cho những người chiến sĩ trên đường hành quân xa xôi mệt mỏi. Chẳng những vậy, tiếng suối trong như là “trong như tiếng hát xa”. “Tiếng hát xa” là thứ âm thanh rất đặc biệt. Đó phải là tiếng hát rất cao để có sức lan tỏa mạnh mẽ, để từ xa con người vẫn có thể cảm nhận được. Đó cũng là tiếng hát vang lên trong thời khắc yên lặng bởi nếu không, nó sẽ bị lẫn vào biết bao âm thanh phức tạp của sự sống, liệu từ xa, con người còn có thể cảm nhận được? Điều thú vị trong câu thơ của Bác Hồ là một âm thanh của tự nhiên được so sánh với tiếng hát của con người. Điều đó thể hiện cảm hứng nhân văn sâu sắc trong những vần thơ của Bác. Cảnh đêm khuya hẳn trong trẻo, tĩnh lặng đến nhường nào Người mới có thể lắng nghe được tiếng suối long lanh ấy. Điều này không khó hiểu bởi không gian núi rừng thường được bao phủ bởi nhiều âm thanh phong phú: tiếng chim kêu, tiếng gió thổi, tiếng cây rừng xao xác tiếng muông thú gọi bầy... Trong bài thơ “Cảnh rừng Việt Bắc”, Bác đã từng viết: “Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay Vượn hót chim kêu suốt cả ngày”. Vậy thì có lẽ, đây là chút yên ả hiếm hoi của thiên nhiên núi rừng vào thời khắc đêm khuya. Thiên nhiên yên tĩnh nhưng cũng là tâm hồn con người yên tĩnh, thanh thản hoà mình vào vẻ đẹp của tự nhiên. Thiên nhiên vào giây phút ấy thật hữu tình biết mấy: Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa Hai từ "lồng" cùng nằm trong một câu thơ tạo những ấn tượng rất đặc biệt. "Lồng" là động từ chỉ việc các vật nằm vào trong một cách thật khớp để tạo thành một chỉnh thể. Câu thơ hữu tình như một bức tranh duyên: ánh trăng mênh mông tỏa sáng bao trùm lên cây cổ thụ, bóng cây cổ thụ lại dịu dàng phủ mình lên những nhành hoa. Bác dùng từ "lồng" rất "đắt", nó trở thành "nhãn tự" cho câu thơ. Chỉ với một từ ấy, cảnh vật như đang giao hoà, nương dựa vào nhau một cách duyên dáng, đáng yêu. Đôi mắt người chiến sĩ cách mạng Hồ Chí Minh thật hữu tình, bác ái. Cảnh khuya sống động, có hồn bao nhiêu càng chứng tỏ một điều: người thưởng cảnh đang xa rời giấc ngủ yên bình thường nhật. Bởi vậy nên: Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ Cảnh khuya trong trẻo, tĩnh lặng càng làm nổi bật hình ảnh Bác Hồ thao thức không yên trong đêm vắng. Người hòa mình vào thiên nhiên để cất tiếng thơ ngợi ca thiên nhiên núi rừng song đó chỉ là giây phút phiêu du vào mây gió còn tâm hồn người thực sự đang gửi gắm ở một chân trời khác: Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà. Câu thơ vang lên như một sự bừng tỉnh cho người đọc. Ta cứ ngỡ Bác đang thảnh thơi thưởng cảnh chơi trăng nhưng kì thực tấm lòng người vẫn đau đáu cho nỗi niềm non nước. Bác "chưa ngủ" vì một lẽ rất Hồ Chí Minh: “vì lo nỗi nước nhà”. Nói vậy bởi Bác đã có nhiều đêm không ngủ, nhiều đêm trở trăn vì cuộc kháng chiến của dân tộc: “Một canh, hai canh, lại ba canh Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng lành Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh”. Vậy là, dù có tạm để lòng mình hướng đến cảnh vật xung quanh (một lời hỏi thăm người bạn muôn đời của thi nhân kim cổ) tâm hồn Bác vẫn luôn dành trọn tâm tình cho non sông, dân tộc. Và nói như nhà thơ Minh Huệ: “Đêm nay Bác ngồi đó Đêm nay Bác không ngủ Vì một lẽ thường tình Bác là Hồ Chí Minh” Bài thơ khép lại với bao dư âm mênh mang lan toả. Đã hơn một lần chúng ta xúc động trước tấm lòng cao cả, bác ái của Bác Hồ nhưng mỗi lần đọc lại “Cảnh khuya” ta lại bồi hồi với những tâm tình của một người mà cả cuộc đời chưa bao giờ nghỉ ngơi, chưa bao giờ ẩn mình trong giấc ngủ. Bài mẫu 2 Chủ tịch Hồ Chí Minh được biết tới là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, song bên cạnh sự nghiệp chính trị vẻ vang, Người còn có tài năng văn học xuất chúng. Ở Bác, có một hồn thơ không thể trộn lẫn với bất cứ nhà văn nào. Trong mọi tác phẩm, bác luôn canh cánh trong lòng nỗi đau của một người dân mất nước, của một người lãnh đạo cách mạng luôn lo lắng cho vận mệnh dân tộc, và của một người con yêu nước đến da diết. Ta rất ít khi thấy Bác Hồ viết về tình cảm cá nhân của mình trong những tác phẩm của Người, toàn bộ khối cóc và trái tim Người dành trọn vẹn cho đất nước. Bài thơ “cảnh khuya” là bài thơ thể hiện rất rõ phong cách nghệ thuật của Người. Bài thơ Cảnh khuya được Bác sáng tác vào giai đoạn đầu của kháng chiến chống Pháp, cụ thể vào năm 1947. Đây là giai đoạn nhân dân hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, rút lui lên những vùng rừng núi, hiểm trở để thành lập căn cứ, lực lượng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài với thực dân Pháp. Trong một đêm trăng đẹp, Bác ngắm cảnh và viết lên những vần thơ tuyệt đẹp. Bài thơ lột tả vẻ đẹp của thiên nhiên, núi rừng đồng thời gửi gắm bên trong tâm sự của người lãnh đạo, lo lắng tương lai và vận mệnh của đất nước. Chỉ vẻn vẹn bốn câu thơ, nhưng đủ sức gợi vừa diễn tả được tình yêu thiên nhiên, tâm hồn thơ mộng, vừa diễn tả được những trăn trở của một con người đã cả đời vì nước vì dân. Hai câu thơ đầu tập trung tả cảnh thiên nhiên: Tiếng suối trong như tiếng hát xa Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa Giữa chiến khu Việt Bắc đẹp hoang sơ, Bác chọn hình ảnh suối để miêu tả đầu tiên, như một điểm nhấn quan trọng khi nhắc về thiên nhiên nơi đây. Suối được miêu tả bằng thính giác, điểm nhìn của Bác đặt xa con suối, vì vậy câu thơ tạo cảm giác con suối chỉ ẩn hiện trong khu rừng Việt Bắc bạt ngàn. Bằng đôi tai nhạy cảm và trái tim đầy nghệ thuật, Bác so sánh tiếng suối với tiếng hát xa, một cách so sánh vô cùng đặc sắc, vừa thể hiện được cái âm vang của thiên nhiên, vừa làm nổi bật vẻ thanh tịnh và yên bình của cảnh vật. Tiếng hát xa được đưa vào để so sánh đã đồng thời nhân hóa con suối như một con người thực thụ. Song giữa hai hình ảnh được so sánh nhằm diễn tả âm thanh, lại xuất hiện tính từ “trong”, có sự lồng ghép giữa thị giác và thính giác. Người cảm nhận được độ “trong” của dòng chảy. Dòng suối ấy hẳn rất ngọt lành, trong mát, đó hẳn cũng là thứ quà riêng mà thiên nhiên núi rừng ban tặng riêng cho những người chiến sĩ trên đường hành quân xa xôi mệt mỏi. Cảnh khuya tách biệt khỏi thế giới của con người, chỉ được miêu tả qua thính giác nhưng lại có tính gợi hình gợi cảm cao. Nguyễn Trãi khi miêu tả tiếng suối cũng từng có những câu thơ: Côn Sơn suối chảy rì rầm Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai Tiếng suối bản thân nó đã là một khúc nhạc tuyệt vời của thiên nhiên, luôn làm cảm hứng bất tận cho thi ca. Câu thơ tiếp theo, thiên nhiên đạt đến sự hoàn mĩ: Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa Thiên nhiên yên tĩnh nhưng cũng là tâm hồn con người yên tĩnh, thanh thản hòa mình vào vẻ đẹp của tự nhiên. Thiên nhiên vào giây phút ấy thật hữu tình biết mấy. Điệp từ “lồng” nhấn mạnh sự xuyên tỏa của ánh sáng trăng khuya, sự giao hòa, quấn quýt giữa cảnh vật. Cảnh vật dưới sự tác động của ánh trăng giao hòa lẫn nhau, tạo nên một bức tranh đẹp khôn cùng, lại thanh cao. Câu thơ hữu tình như một bức tranh duyên: ánh trăng mênh mông tỏa sáng bao trùm lên cây cổ thụ, bóng cây cổ thụ lại dịu dàng phủ mình lên những nhành hoa. Bác dùng từ "lồng" rất "đắt", nó trở thành "nhãn tự" cho câu thơ. Chỉ với một từ ấy, cảnh vật như đang giao hòa, nương dựa vào nhau một cách duyên dáng, đáng yêu. Đối với Bác, trăng có một ý nghĩa đặc biệt, không phải ngẫu nhiên mà trăng trở thành hình ảnh quen thuộc trong các tác phẩm của Người: Người ngắm trăng soi ngoài của sổ Trăng nhòm khe của ngắm nhà thơ Như vậy, chỉ với bốn nét vẽ (suối, trăng, cổ thụ, hoa) chấm phá, tả ít gợi nhiều, cảnh khuya chiến khu Việt Bắc hiện lên với cái hồn cảnh vật núi rừng một đêm thu về khuya hơn 50 năm về trước, vẻ đẹp cổ điển biểu hiện một tâm hồn thanh cao, một phong thái ung dung tự tại, một tình yêu thiên nhiên chan hòa, dào dạt của nhà thơ Hồ Chí Minh trong kháng chiến gian khổ. Hai câu thơ cuối, điểm nhìn chuyển hướng về con người Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà Trong bài thơ “đêm nay Bác không ngủ” đã có những câu thơ: Chú cứ việc ngủ ngon Ngày mai đi đánh giặc Bác thức thì mặc Bác Bác ngủ không an lòng Dường như, vì cả tâm hồn Bác dành cho non sông, nên vào những đêm khuya, Bác luôn thao thức trằn trọc vì nỗi lo cho đất nước. Cảnh khuya sống động, có hồn bao nhiêu càng chứng tỏ một điều: người thưởng cảnh đang xa rời giấc ngủ yên bình thường nhật. Giữa cảnh khuya tĩnh lặng nhưng lòng người lại ngổn ngang thế sự, không thể yên tâm mà thưởng nguyệt. Lồng ghép giữa thiên nhiên thanh bình là hình ảnh của một người cả đời vì nước vì dân, không thể chợp mắt. Câu thơ tiếp theo trả lời cho lý do vì sao Bác không ngủ: “Không ngủ vì lo nỗi nước nhà”. điệp từ “chưa ngủ” được sử dụng hai lần, bác hồ chưa ngủ vì cảnh đẹp nhưng cũng vì nước nhà đang chiến tranh. Bác đang suy nghĩ về tình hình đất nước và chiến tranh, điệp từ “chưa ngủ” đã thể hiện được nỗi lo nước nhà của Bác. Bài thơ như tách làm hai mảnh, một bên cảnh thiên nhiên đang đợi người thường thức, một bên lại chênh vênh nỗi đau của cả một dân tộc. Bài thơ đã diễn tả xuất sắc tâm hồn thanh cao mà giản dị của vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Bài mẫu 3 Bài thơ Cảnh khuya được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết vào năm 1947, khi quân và dân ta đang thắng lớn trên chiến trường Việt Bắc. Sông Lô, Đoan Hùng đã đi vào lịch sử bằng những nét vàng chói lọi đầu tiên của ta trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Bài thơ thể hiện cảm hứng yêu nước mãnh liệt dạt dào ánh sáng và âm thanh. Đó là ánh sáng của trăng Việt Bắc, của lòng yêu nước sâu sắc: Tiếng suối trong như tiếng hát xa Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ, Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà Cùng với các bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc, Đi thuyền trên sông Đáy, Cảnh khuya thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu nước sâu sắc của Bác trong một đêm trăng nơi núi rừng Việt Bắc. Hai câu thơ đầu trong bài thơ tả cảnh đêm khuya nơi núi rừng Việt Bắc. Trăng càng về đêm càng sáng. Ánh trăng lan tỏa bao phủ khắp mặt đất. Đêm vắng, tiếng suối nghe càng rõ. Tiếng suối chảy êm đềm nghe rất trong rì rầm từ xa vọng đến. Cảm nhận của Bác thật tinh tế, nghe suối chảy mà cảm nhận được mức độ xanh trong của dòng nước. Tiếng suối trong đêm khuya như tiếng hát xa dịu êm vang vọng, khoan nhạt như nhịp điệu của bài hát trữ tình sâu lắng. Đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnh, tiếng suối rì rầm êm ả, vắng lặng trong đêm chiến khu. Tiếng suối và tiếng hát là nét vẽ tinh tế gợi tả núi rừng chiến khu thời máu lửa mang sức sống và hơi ấm của con người: Tiếng suối trong như tiếng hát xa Sáu trăm năm trước trong bài thơ Bài ca Côn Sơn Ức Trai đã có cảm nhận cực kì tinh tế về dòng suối Côn Sơn: Côn Sơn suối chảy rì rầm Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai Tiếng suối nghe sao mà êm đềm thơ mộng đến thế. Nó như những giọt của cây đàn cầm vang vọng bên tay. Đầu thế kỉ XX Nguyễn Khuyến đã từng viết về dòng suối như sau: Cũng có lúc chơi nơi dặm khách Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo... Mỗi một vần thơ, mỗi một khung cảnh, âm thanh của suối chảy được cảm nhận tinh tế khác nhau. Sau tiếng suối nghe như tiếng hát xa kia là trăng chiến khu. Ánh trăng chiến khu sao mà sáng và đẹp thế. Tầng cao là trăng, tầng giữa là cổ thụ, tầng thấp là hoa - hoa rừng. Cả núi rừng Việt Bắc đang tràn ngập dưới ánh trăng. Ánh trăng bao phủ khắp không trung mát dịu, len lỏi xuyên qua kẽ lá, tán cây, ánh trăng như âu yếm, hoà quyện cùng thiên nhiên cây cỏ. Ánh trăng như xoáy và lồng vào những tán lá. Và trên mặt đất những đóa hoa rừng đang ngậm sương đêm cùng với bóng cổ thụ đan xen trên mặt đất. Đêm thanh, trên không trung dường như chỉ có vầng trăng ngự trị. Đêm vắng, trăng thanh mặt đất cỏ cây như ngừng thở để đón đợi ánh trăng mát lạnh dịu hiền mơn man ôm ấp: Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa Chữ lồng điệp lại hai lần đã nhân hoá vầng trăng, cổ thụ và hoa. Trăng như người mẹ hiền đang tiếp cho muôn vật trần gian dòng sữa ngọt ngào. Trăng trở nên thi vị, trữ tình lãng mạn. Chữ lồng gợi cho ta nhớ đến những câu thơ sau trong Chinh phụ ngâm: Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông, Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng... Trong câu có tiểu đối trăng lồng cổ thụ / bóng lồng hoa tạo sự cân xứng trong bức tranh về trăng, ngôn ngữ thơ trang trọng, điêu luyện tạo nên bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp tràn đầy chất thơ. Cảnh khuya trong sáng, lung linh huyền ảo. Đọc vần thơ ta nghe như có nhạc, có hoạ, bức tranh cảnh núi rừng Việt Bắc thơ mộng biết bao. Người xưa từng nói thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc quả thật không sai. Đối với Bác, trăng đã trở thành tri âm tri kỉ nên làm sao có thể hờ hững trước cảnh đẹp đêm nay. Trong ngục tối bị giam cầm, trước ánh trăng tuyệt đẹp Bác Hồ cũng đã có những vần thơ tuyệt diệu: Trong tù không rượu cũng không hoa Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ... (Ngắm trăng) Một thi sĩ với tâm hồn thanh cao đang sống những giây phút thần tiên giữa cảnh khuya chiến khu Việt Bắc. Giữa bức tranh thiên nhiên rộng lớn và hữu tình như vậy, tâm trạng thi sĩ bỗng vút cao thả hồn theo cảnh đẹp đêm trăng bởi đêm nay Bác không ngủ. Trước cảnh đẹp đêm trăng: có suối, có hoa lá, núi ngàn, và cả tâm trạng của Bác. Bác không chỉ xúc động trước cảnh đẹp thiên nhiên mà: Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà Nước nhà đang bị giặc xâm lăng giày xéo, biết bao đồng chí đang bị gông cùm xiềng xích. Cuộc đời còn lầm than cơ cực, bao năm Bác bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ lầm than. Nay nước nhà còn đang chìm trong khói lửa đạn bom lòng Bác sao có thể ngủ yên giấc được. Chưa ngủ không hẳn chỉ vì cảnh đẹp đêm nay mà chưa ngủ vì nỗi nước nhà. Nỗi nhớ nhà lo cho nước nhà làm cho trái tim Bác luôn thổn thức. Bác thức trong đêm khuya trằn trọc băn khoăn không sao ngủ được. Lòng yêu nước sâu sắc mãnh liệt xiết bao. Đã có biết bao đêm Bác Hồ của chúng ta cũng mất ngủ như vậy: Một canh, hai canh, lại ba canh Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh (Không ngủ được) Hình ảnh sao vàng chính là tự do độc lập, niềm thao thức mơ ngày mai ánh hồng soi đất nước hoà bình. Một tâm hồn nghệ sĩ thanh cao lồng trong cốt cách người chiến sĩ cộng sản kiên trung. Cảm hứng thiên nhiên chan hòa với cảm hứng yêu nước tha thiết của Bác. Bài thơ Cảnh khuya là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt cực hay, là một trong những bài thơ trăng đẹp nhất của Bác. Giữa chốn rừng Việt Bắc tràn ngập ánh trăng, lòng Bác luôn thao thức vì nỗi nước nhà. Đó là nét đẹp riêng của bài thơ, cảm hứng thiên nhiên nhiên chan hòa trong lòng yêu nước sâu sắc. Thương dân, lo cho nước, yêu trăng... như dẫn hồn ta vào giấc mộng đẹp. Đọc thơ Bác giúp ta càng biết ơn, yêu kính Bác Hồ hơn. Bài mẫu 4 Sau "Nhật kí trong tù", những năm lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở chiến khu Việt Bắc là thời kỳ Hồ Chí Minh làm nhiều thơ hơn cả. Từ những bài thơ kháng chiến của Người toát lên tình cảm thiết tha đối với thiên nhiên đất nước mình, tinh thần trách nhiệm lớn lao của vị lãnh tụ đang chèo chống con thuyền kháng chiến, toát lên phong thái ung dung, lạc quan của một con người luôn vững tin ở tương lai. “Tiếng suối trong như tiếng hát xa Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa Cảnh khuya chưa vẽ người chưa ngủ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà” Cảnh khuya được sáng tác vào năm 1947 – năm đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ chỉ huy kháng chiến đóng ở chiến khu Việt Bắc. Như nơi hội tụ của nhiều vẻ đẹp khác nhau, Cảnh khuya thể hiện sinh động quan điểm thẩm mĩ, nhân sinh cao đẹp, phong cách nghệ thuật độc đáo của một chiến sĩ cách mạng vĩ đại đồng thời là một nhà thơ lớn. Một vẻ đẹp vừa đậm màu sắc dân gian vừa trang nghiêm cổ kính từ những câu chữ bình dị mà hàm súc. Cảnh này có hình vật, có ánh sáng và có âm thanh. Trên nền cảnh núi rừng Việt Bắc vắng vẻ, huyền ảo bởi ánh trăng lồng cổ thụ, tiếng suối thanh trong như điệu nhạc êm, hát mãi không ngừng. Câu thơ của Bác Hồ khiến ta nhớ lại Côn Sơn ca của Nguyễn Trãi: “Côn Sơn suối chảy rì rầm Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai” Nguyễn Trãi ví tiếng suối như tiếng đàn, Bác ví tiếng suối với tiếng hát. Nguyễn Trãi tả nước suối trong, còn Bác nghe tiếng suối trong. Người cảm nhận âm thanh chứ không tả cảnh vật, tả màu sắc. Trong đêm khuya thanh vắng giữa chốn núi rừng, dễ nghe tiếng hát trong trẻo của tiếng suối xa. Ngay câu mở đầu, Cảnh khuya đã đưa người đọc vào thế giới thiên nhiên hiền hòa với cảm giác gắn bó. Câu thứ hai của bài thơ thật giàu giá trị tạo hình, như một bức tranh phong cảnh đẹp, có tầng lớp. Nhìn lên: vầng trăng cao lồng cổ thụ – nét họa có tính trang nghiêm, cổ điển. Nhìn thấp xuống: bóng trăng và bóng cây cổ thụ lại in lồng trong hoa, trong những cây lá ở dưới – nét bút nhỏ, tinh tế. Câu thơ vẽ ra một không gian ba tầng với những mảng màu đen trắng lồng gắn lẫn nhau. Bởi tâm hồn Bác tinh tế, giàu chất thơ, mắt Bác quen nhìn các sự vật, các hiện tượng trong mối quan hệ tự nhiên, biện chứng của chúng nên Người phát hiện ra những vẻ đẹp độc đáo của thiên nhiên. Trong thơ, Bác không hay tả nhiều nhưng cảnh vật hiện lên rất cụ thể, sinh động và phong phú. Đặc biệt, không chỉ riêng trong trường hợp này, có nhiều khi một câu thơ của Người lại bao gồm nhiều sự vật trong mối quan hệ chặt chẽ. Chẳng hạn, quan hệ quấn quýt, lồng gắn vào nhau: "Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân" (Núi ấp ôm mây, mây ấp núi) (Trông Thiên Sơn) Chẳng hạn, quan hệ tiếp nối theo thế chuyển động: “Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên” (Rằm tháng giêng) Trở lại với Cảnh khuya. Hai câu đầu đã dẫn người đọc vào một thế giới thiên nhiên huyền ảo, trong trẻo. Truyền thống “thi trung hữu họa”, “thi trung hữu nhạc” của phương Đông, vẻ cô đúc cổ điển của thơ Đường được phát huy qua một tâm hồn nghệ sĩ lớn. Sau hai câu dựng cảnh, tạo âm, câu thứ ba vừa như khắc đậm, gói lại phần trên, vừa như mở chuyển cho phần kết: “Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ”. Cảnh đẹp tựa tranh vẽ thế kia, người làm sao nhắm mắt được! Người thao thức vì cảnh chăng, vì sao người chưa ngủ được? Thật bất ngờ, Cảnh khuya kết thúc: “ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”. Thì ra cái nguyên nhân chủ yếu khiến “người chưa ngủ” không phải là “cảnh khuya như vẽ” – câu thứ ba chưa phải chứa đựng mối quan hệ nhân quả chính – mà là “nỗi nước nhà”. Câu chuyện này được chia thành hai vế: “Cảnh khuya như vẽ” là lời tổng kết cho phần trên, còn “người chưa ngủ” là bản lề giữa hai phần của bài thơ, là kết quả từ hai phía nguyên nhân. Ba chữ đó nêu lên cái thực tế nhìn được để mở sâu vào cái hiện thực tâm trạng. Trong loại thơ tứ tuyệt lâu nay, ít có bài nào lại kết thúc tựa một lời giải thích, cắt nghĩa thẳng, rõ như vậy. Phải chăng đó cũng là cái độc đáo của Bác – cái độc đáo của nghệ thuật bắt nguồn từ sự lớn lao của tâm hồn. Nghệ thuật ấy vô cùng chân thực, giản dị, đi thẳng vào lòng người nên cũng là nghệ thuật cao quí, tinh vi nhất. Nghệ thuật ấy không ép mình trong câu chữ, không lệ thuộc vào thủ pháp mà bộc bạch tự nhiên nỗi lòng mình nên cũng rung động sâu xa người. Đang miêu tả cảnh vật thiên nhiên, câu thứ tư kéo về biểu hiện chiều sâu tâm trạng. Bài thơ khép lại một cách bất ngờ nhưng hết sức tự nhiên, trọn vẹn. Bất ngờ nhưng hết sức tự nhiên, trọn vẹn bởi Bác Hồ ta luôn canh cánh một nỗi lo lớn vì đất nước, bởi vì Người ít khi có giấc ngủ trọn vẹn khi nước nhà chưa được độc lập, tự do. Trong tù, Người không ngủ được “Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành”. “Đêm không ngủ” vì nỗi nhớ “Nghìn dặm bâng khuâng hồn nước cũ”… Và lúc này, khi cả non sông đang bị kẻ thù trở lại giày xéo và cuộc chiến đấu mới bước vào những ngày đầu tiên gian khổ, vị Tư lệnh Hồ Chí Minh cũng hiếm những đêm nghỉ ngơi thanh thản. Hải Như từng viết “Cả cuộc đời Bác ngủ có yên đâu”. Chúng ta càng hiểu nỗi không yên này khi nhớ rằng bài Cảnh khuya được sáng tác vào năm 1947 – trong thời kì đầu vận nước đứng trước cơn thử thách gian nan lớn. Giữa rừng trăng khuya vì lo việc nước mà Người bắt gặp vẻ đẹp mĩ lệ của thiên nhiên đất nước; ngược lại nỗi lo việc nước nhà không hề ngăn cản sự thưởng thức cảnh đẹp, lắng nghe tiếng rừng, tiếng suối của Người. Cảnh khuya đã nêu lên một mẫu mực về sự thống nhất cao độ, tự nhiên giữa lòng yêu thiên nhiên với tình yêu nước của người chiến sĩ- nghệ sĩ Hồ Chí Minh. Với Bác, yêu thiên nhiên cũng là yêu nước vì vầng trăng sáng, cây cỏ ấy, núi sông này là một phần yêu quí của thiên nhiên đất nước. Tình yêu nước bao la, ý chí chiến đấu vì nhân dân, Tổ quốc khiến Người nhìn thiên nhiên đất nước thêm giàu thêm đẹp và ngược lại, lòng yêu mến cảnh vật thiên nhiên đất nước là một động cơ thúc đẩy Người thêm lo “nỗi nước nhà”. Từ đó, dẫn đến sự thống nhất một cách tất yếu giữa tình cảm đối với thiên nhiên và trách nhiệm lịch sử – xã hội, một vẻ đẹp độc đáo của con người cách mạng ở thời đại mới. Bài thơ tên đề “Cảnh khuya” nhưng lại nặng “nỗi nước nhà”, rất đậm tình. Chính cái tình đó tăng thêm không khí thâm trầm, man mác của cảnh và làm nên sức ngân vang dẫu lời thơ đã tận. Chúng ta càng hiểu vì sao ngay lúc mở đầu Cảnh khuya không họa vật, vẽ cảnh mà tạo âm – “Tiếng suối trong như tiếng hát xa” ngân lên như khúc dạo đầu. Trong đêm khuya thanh vắng chốn núi rừng Việt Bắc, cái dễ khiến “người chưa ngủ” cảm nhận và rung động trước tiên là tiếng suối - âm thanh duy nhất trong không gian huyền ảo. Tiếng gọi của “nỗi nước nhà” luôn thao thức ở lòng Người đã bắt gặp tiếng suối trong như tiếng hát của rừng núi thiên nhiên và hai âm thanh đó hòa hợp, ngân dài, vang sâu suốt cả bài thơ. Rõ ràng là nhân sinh quan cách mạng đã làm đẹp tình yêu của người chiến sĩ. Cảnh khuya đâu chỉ có chuyện cảnh mà chính là chuyện người. Bài thơ giúp ta khẳng định thêm đặc điểm thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh. Thiên nhiên ấy là biểu hiện đặc biệt của một tầm nhìn, một quan niệm triết lí, nhân sinh tiến bộ và những cảm xúc thẩm mĩ cao đẹp. Bài mẫu 5 Chủ tịch Hồ Chí Minh được biết đến là vị lãnh tụ vĩ đại, vị cha già kính yêu giàu lòng nhân ái của dân tộc. Không chỉ thế, người ta ngưỡng mộ và cảm phục Bác bởi Người còn là một nhà thơ, nhà văn lỗi lạc của dân tộc Việt Nam ta. Đọc thơ Bác ta ấn tượng về những bài thơ Người viết về trăng. Cảnh khuya là bài thơ đặc sắc trong số đó. Chỉ hai mươi tám chữ với bốn dòng thơ, độc giả có thể thấy được tâm hồn đẹp đẽ hòa nhập với thiên nhiên và tinh thần cống hiến cho dân, cho nước của Bác. Cảnh khuya được biết đến là một bài thơ viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Bài thơ được viết vào năm 1947, đây là thời kì đầu của kháng chiến chống thực dân Pháp. Giữa hoàn cảnh thiếu thốn nơi núi rừng Việt Bắc và những thử thách ác liệt mà thực dân gây ra nhưng Bác vẫn luôn lạc quan với phong thái ung dung. Bác vẫn dành cho mình những phút giây thảnh thơi để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên nơi chiến khu. Bài thơ viết về đề tài thiên nhiên với chủ đề chính được làm nổi bật chính là tình yêu thiên nhiên cùng nỗi lòng cao đẹp lo cho nước, cho dân của vị lãnh tụ vĩ đại và đáng kính - Hồ Chí Minh. Bác đã dùng tâm hồn của một thi sĩ để vẽ nên cảnh thiên nhiên núi rừng trong đêm trăng. Người đọc như cũng lặng mình ngắm nhìn cảnh đẹp đêm trăng Việt Bắc được gợi mở trong hai câu thơ đầu: "Tiếng suối trong như tiếng hát xa Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa" Âm thanh tiếng suối trong bài thơ được gợi ra thật mới mẻ bằng nghệ thuật so sánh độc đáo. “Tiếng suối” được so sánh với “tiếng hát xa” gợi cho ta một cảm giác thanh bình. Có lẽ nơi đây phải yên ắng lắm, mọi vật chìm vào trong giấc ngủ rồi thì Bác mới có thể nghe được tiếng suối nơi xa vọng về. Dưới tài năng và tâm hồn lãng mạn của Bác thì tiếng suối nghe như tiếng hát ngọt ngào mà mẹ thiên nhiên đang dỗ dành những đứa con của mình ngủ yên. Cảm nhận của người thi sĩ hết sức tinh tế, trong trẻo thể hiện một tâm hồn thanh bạch, không vướng bụi. Tiếng suối đêm khuya đã phá tan đi bầu không khí yên tĩnh. Đây chính là nghệ thuật lấy động tả tĩnh, chỉ có âm thanh tiếng suối trong đêm khuya và mọi vật đang chìm vào trong giấc ngủ, nơi chiến trường đầy bom đạn mà vẫn có tiếng suối chảy du dương như vậy thật tuyệt vời biết bao. Nguyễn Trãi- vị anh hùng dân tộc cũng đã có những vần thơ cảm nhận về tiếng suối: Côn Sơn suối chảy rì rầm Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai Cả Bác Hồ và Nguyễn Trãi tuy sống vào hai thời điểm khác nhau nhưng cả hai lại có những cảm nhận rất tinh tế về âm thanh của tiếng suối vào lúc đêm khuya. Sau âm thanh của tiếng suối ta thấy xuất hiện hình ảnh của ánh trăng nơi chiến khu. Ta ấn tượng với cách sử dụng điệp từ “lồng” của Bác khi được nhắc lại hai lần. Hình ảnh trăng, hoa, cây cổ thụ quấn quýt, sinh động, tươi tắn gần gũi, hòa quyện như đưa người đọc vào thế giới lung linh huyền ảo. Cảnh vật thật yên tinh, thơ mộng, sống đọng, ấm áp gợi cảm giác gần gũi, thanh thản. Đối với Bác trăng là người bạn tri âm, tri kỉ nên trước cảnh đẹp ấy Bác có biết bao nỗi xúc động. Khi bị giam trong ngục tối, trước ánh trăng sáng tuyệt đẹp ngoài cửa sổ Bác cũng viết nên những vần thơ rất hay: Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ Với người có tâm hồn thanh cao đang tận hưởng những giây phút tuyệt vời nơi núi rừng Việt Bắc, giữa bức tranh thiên nhiên chứa chan cảm xúc như vậy, tâm trạng nhà thơ bỗng thả hồn theo trăng vì đêm nay Bác không ngủ. Bác Hồ kính yêu không chỉ xúc động trước cảnh đẹp thiên nhiên mà hai câu thơ cuối còn Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà Đất nước đang bị giặc xâm lăng, biết bao người dân phải sống trong cảnh lầm than nên Bác chưa thể ngủ được. Điệp ngữ “chưa ngủ” gợi lên những ý tứ thật bất ngờ và sâu sắc, vừa khẳng định lại vẻ đẹp của đêm trăng vừa nói được nỗi lo lắng cho vận mệnh dân tộc của Bác. Hai câu thơ này đã cho ta thấy rõ hơn con người của Bác. Một con người tha thiết yêu thiên nhiên nhưng đan cài trong đó là nỗi lo cho đất nước, cho nhân dân. Đây chính là tấm lòng của vị lãnh tụ kính yêu. Bác dẫu có bận bao nhiêu việc nhưng vẫn luôn dành thời gian quý báu của mình ra để thưởng thức cảnh đẹp của thiên nhiên, có lẽ chính thiên nhiên là người bạn tâm giao để Bác cảm thấy khuây khỏa. Chính vì vậy, ta cảm thấy rằng Bác là một người luôn biết hài hòa giữa công việc với thiên nhiên và càng yêu thiên nhiên bao nhiêu thì trách nhiệm với công việc cũng lớn hơn gấp bội. Đằng sau chân dung của Người khi ung dung tự tại ngồi ngắm trăng là cả một nỗi khát khao về đất nước hoà bình, nhân dân được hưởng cuộc sống tự do, hạnh phúc. Dường như trong tâm trí Bác một câu hỏi vẫn luôn đau đáu: Bao giờ đất nước của mình mới bình yên để con dân thỏa sức ngắm trăng. Bác luôn dành tất cả sự yêu thương của mình cho dân tộc ta, vì đất nước Bác có thể hi sinh tất cả. Có thể nói, trong bài thơ, cảnh và tình có mối tương quan mật thiết, đan hòa. Cảm xúc về thiên nhiên đã chắp cánh cho tình yêu Tổ quốc được bộc lộ, đó là sự đan xen của hai tâm hồn chiến sĩ – thi sĩ trong thơ Bác. Qua đó, ta cũng hiểu Bác thật đúng là người có tâm hồn nhạy cảm, phong thái ung dung và lạc quan để từ đó càng thêm khâm phục, yêu mến, biết ơn và tự hào về vị lãnh tụ vĩ đại của Cách mạng Việt Nam. Như vậy, chỉ qua 4 câu thơ ngắn gọn được viết theo thể thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đã dựng xây nên hình tượng Bác giao hoà giữa vẻ đẹp của người chiến sĩ với thi sĩ. Với bút pháp miêu tả nhưng thiên về gợi sự hài hoà của cảnh vật trong cảnh đã tạo nên bức tranh thiên nhiên đẹp tuyệt vời. Cách sử dụng từ ngữ giản dị mà giàu sức gợi kết hợp với biện pháp tu từ so sánh, điệp ngữ đã giúp Cảnh khuya mãi vấn vương trong lòng độc giả với tình yêu cao cả mà Bác dành cho đất nước, cho nhân dân. Cảnh khuya là bài thơ tuyệt hay, là một trong những bài thơ trăng đẹp và ấn tượng nhất của Bác. Giữa không gian núi rừng tràn ngập trong ánh trăng nhưng Bác luôn lo nghĩ cho dân tộc ta. Đó chính là vẻ đẹp riêng của bài thơ, là cảm hứng thiên nhiên đan cài với tình yêu nước sâu sắc. Thương cho con dân, lo cho nước, yêu thiên nhiên là tất cả những gì ta đáng ngưỡng mộ nhất ở vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Đọc thơ Bác khiến ta càng thêm yêu và biết ơn Người hơn bao giờ hết. Bài mẫu 6 Chủ tịch Hồ Chí Minh vốn là một con người có tâm hồn nghệ sĩ. Người có tình yêu thiết tha với thiên nhiên vạn vật, ngay lúc còn trong ngục tối, thời gian bị giam hãm nhưng đứng trước vẻ đẹp của thiên nhiên, bằng những rung cảm mãnh liệt Bác đã tạo ra những bài thơ tuyệt tác. Cho đến những ngày hoạt động ở chiến khu Việt Bắc đầy gian lao, vất vả nhưng tâm hồn Bác vẫn không thôi hướng về thế giới. Và bài thơ Cảnh khuya là một trong những bài thơ được tạo ra từ những rung động trước cuộc sống như thế. Bài thơ Cảnh khuya được viết bằng chữ quốc ngữ mang đậm tính hiện đại. Cũng vẫn là khung cảnh núi rừng Việt Bắc nhưng lại là khung cảnh thiên nhiên ở một chiều kích không gian khác. Mở đầu bài thơ là âm thanh vang vọng núi rừng: Tiếng suối trong như tiếng hát xa Tiếng suối hay tiếng người? Có lẽ là cả hai âm thanh này đã hòa quyện vào nhau chăng? Thật khó để có thể phân biệt được. Trường liên tưởng và sự so sánh của Bác thật đặc biệt mà cũng thật đúng, tạo nên hình ảnh thơ sinh động, làm sống động cả khung cảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc. Đọc câu thơ này ta lại bất giác nhớ đến câu thơ của Nguyễn Trãi: Côn Sơn suối chảy rì rầm Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai. Nếu như trong hai câu thơ của Nguyễn Trãi lấy thiên nhiên làm chuẩn mực của cái đẹp, của sự toàn mĩ thì ngược lại trong thơ Bác lại lấy con người làm chuẩn mực của cái đẹp. Đây có thể coi là một bước tiến, đánh dấu sự chuyển mình của thơ ca hiện đại. Bác đã so sánh tiếng suối với tiếng hát một cách tinh tế, gợi cảm, hình ảnh so sánh này khiến cho âm thanh của tiếng suối xa càng trở nên gần gũi, thân mật với con người hơn. Câu thơ tiếp theo lại cho thấy sự hòa hợp, hòa quyện của cảnh vật: Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa. Cảnh vật thiên nhiên vô cùng huyền ảo, chúng đan cài, hòa quyện vào nhau để tôn lên vẻ đẹp của nhau. Ta có thể thấy bức tranh chồng lên nhau thành nhiều tầng, nhiều lớp, đường nét, hình khối đan cài, hòa hợp với nhau đến thần kì. Có dáng cổ thụ vươn tỏa, trên cao là ánh trăng trong trẻo, lấp lánh, dưới mặt đất in hình muôn ngàn hoa cỏ, cây cối, bức tranh về đêm mà không hề tăm tối, u buồn, ngược lại đầy sinh động và tràn sức sống. Trong khung cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, hữu tình ấy con người xuất hiện và đó cũng chính là hình ảnh của thi nhân. Nhà thơ say mê ngắm nhìn, chiêm ngưỡng và cảm nhận vẻ đẹp lung linh, huyền ảo. Dòng thơ thứ tư bất ngờ mở ra chiều sâu mới trong tâm hồn nhà thơ: Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà. Thì ra, Bác thao thức chưa ngủ được là còn vì đang lo lắng cho vận mệnh của nhân dân, đất nước, chính trong những phút trầm lắng suy tư đó Bác đã bắt gặp được vẻ đẹp của thiên nhiên, vạn vật. Điệp từ “chưa ngủ” được đặt ở cuối câu thứ ba và đầu câu thứ tư như một bản lề mở ra hai dòng tâm trạng của con người: một con người say mê trước vẻ đẹp thiên nhiên, một con người đầy ắp nỗi ưu tư về sự nghiệp giải phóng đất nước. Hai khía cạnh này không mâu thuẫn mà hòa hợp thống nhất với nhau trong tâm hồn Bác. Chân dung Bác hiện lên thật đẹp đẽ, cảm động, đó là hình ảnh vị lãnh tụ hết lòng lo cho đất nước. Câu thơ đã làm sáng ngời phẩm chất, nhân cách cao đẹp của Bác. Bài thơ có sự kết hợp linh hoạt các biện pháp nghệ thuật: so sánh, điệp từ (lồng, chưa ngủ) nối kết hai tâm trạng, bộc lộ chiều sâu tâm hồn cao đẹp của Bác. Ngôn ngữ thơ hiện đại, giản dị mà cũng hết sức tinh tế, hàm súc. Cảnh khuya đã cho ta thấy một tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết, sâu nặng. Cùng với đó là tấm lòng luôn lo nghĩ cho vận mệnh đất nước, dân tộc. Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố cổ điển và yếu tố hiện đại, tạo nên nét đặc sắc cho tác phẩm.
|