Đề thi học kì 1 Văn 12 Chân trời sáng tạo - Đề số 8Tải vềTrong ấp (huyện) có chàng họ Vương, vào hàng thứ bảy, là con nhà cố gia, tuổi trẻ mộ đạo, nghe nói trên núi Lao Sơn(1) có một vị tiên, liền quẩy tráp tới thăm.
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
Tải về
Đề thi I. ĐỌC HIỂU ĐẠO SĨ NÚI LAO Trong ấp (huyện) có chàng họ Vương, vào hàng thứ bảy, là con nhà cố gia, tuổi trẻ mộ đạo, nghe nói trên núi Lao Sơn(1) có một vị tiên, liền quẩy tráp tới thăm. Trèo lên hết một ngọn núi, thấy một nhà quán, um tùm cây mát. Một vị đạo sĩ(2) ngồi trên bồ đoàn(3) tóc trắng rủ xuống tận cổ, tinh thần sắc sảo. Sinh khấu đầu làm lễ, bắt chuyện, thấy đạo lí huyền diệu, bèn tôn làm thầy. Đạo sĩ nói: – Chỉ sợ anh sức yếu, không chịu nổi khó nhọc. Thưa là: “được”. Học trò đạo sĩ rất đông, sẩm tối mới kéo nhau về. Vương cùng họ cúi đầu làm lễ chào nhau, rồi quyết định ở lại trong quán. Sáng tinh sương, đạo sĩ đã gọi Vương dậy, đưa cho chiếc rìu, bảo theo lũ học trò đi hải củi. Hơn một tháng, tay chân phỏng mọng, đau không chịu nổi, có bụng muốn về. Một buổi chiều, về đến quán, thấy đạo sĩ đang ngồi uống rượu với hai người khách. Trời đã tối mà chưa thấy thắp đèn, đốt lửa gì cả. Đạo sĩ bèn cắt một miếng giấy tròn như tấm gương, dán lên vách. Phút chốc, ánh trăng vằng vặc từ trên vách chiếu xuống, sáng rõ cả ngọn cỏ, sợi tơ. Bọn học trò chạy quanh hầu hạ. Một người khách nói: – Đêm nay trời đẹp, cùng nhau vui uống, nên cho ai nấy đều vui. Bèn cầm hồ rượu trên bàn, rót cho bọn học trò đứng hầu, dặn mọi người nên uống thật say. Vương nghĩ bụng hồ rượu nhỏ như thể mà chia ra bảy, tám người, làm sao cho đủ. Thấy bọn chúng, đứa cầm chén, đứa vác chậu, tranh nhau uống trước, như sợ mất hết, không tới lượt mình. Vậy mà rót hết chén này đến chén khác, vẫn chẳng thấy rượu vơi đi chút nào, bụng thầm lấy làm lạ. Bỗng một vị khách nói: – Dưới trăng đẹp mà uống suông mãi cũng buồn. Sao chẳng mời chị Hằng xuống chơi? Đạo sĩ bèn lấy một chiếc đũa, vứt vào giữa Mặt Trăng. Bỗng thấy một người đẹp từ trong bóng sáng bước ra: lúc mới đến, chưa đầy một thước, mà vừa đặt chân đến đất thời cao lớn như người thường, lưng thon thả, cổ trắng muốt, áo quần phấp phới, uyển chuyển múa khúc Nghê Thường... [...] Vương thích lắm, đem lòng kính mộ đạo sĩ, bụng muốn về cũng tiêu tan. Lại qua một tháng nữa, khổ không kham, mà đạo sĩ vẫn chưa truyền cho một phép gì. Sốt ruột quá, bèn lên cáo từ, xin về: – Đệ tử qua mấy trăm dặm đường tới xin học thầy; dầu chẳng học được cái đạo trường sinh bất tử, cũng mong thầy dạy cho chút gì gọi là hả chút lòng cầu học. Thế mà qua hai, ba tháng, chỉ những sáng đi kiếm củi, tối lại trở về. Hồi ở nhà, đệ tử chưa bao giờ khổ như thế. Đạo sĩ cười, bảo: – Ta đã nói trước là anh không chịu nổi khó nhọc, nay đã quả nhiên. Sáng mai, sẽ cho người dẫn anh về. Vương lại nài nỉ: – Đệ tử làm lụng đã nhiều, xin thầy dạy cho một thuật mọn, khỏi phụ công lao đệ tử lặn lội tới đây. Đạo sĩ hỏi muốn cầu thuật gì, Vương nói: – Thường thấy thầy đi đâu, tường vách không ngăn nồi, chỉ xin một phép ấy cũng đủ lắm. Đạo sĩ cười, nhận lời. Bèn dạy cho phép bắt quyết(4), bảo miệng đọc mấy câu thần chú, rồi hô: “Vào đi! Vào đi!”. Vương đối mặt với bức tường, nhưng ngần ngừ không dám vào. Đạo sĩ lại hô rằng: – Cứ vào đại thử coi! Vương theo lời, thong thả tiến lại, nhưng đến tường bị vấp. Đạo sĩ bảo cúi đầu, vào thật nhanh, đừng rụt rè. Vương bước xa bức tường mấy bước, đọc câu thần chú, bước nhanh tới, cảm thấy như chỗ trống không. Quay nhìn lại thì đã thấy mình ở bên kia tường. Mừng quá, vào lạy tạ xin về. Đạo sĩ nói: – Về nhà phải giữ gìn đứng đắn; không thế thì phép không nghiệm nữa đâu Nói rồi, cấp tiền cho Vương ăn đường mà về. Đến nhà, chàng khoe đã gặp tiên, tường vách dày đến đâu cũng không ngăn nổi. Vợ không tin. Vương theo như cách đạo sĩ đã dạy, cách tường mấy bước, cúi đầu chạy ù vào. Đầu đập tường cứng ngã lăn đùng. Vợ nâng dậy, nhìn xem, thấy trán sưng bươu bằng quả trứng. Vợ chế giễu mãi. Vương vừa thẹn vừa tức, chửi mãi lão đạo sĩ bất lương. (Bồ Tùng Linh, Liêu trai chí dị (Nguyễn Đức Lân dịch), NXB Văn học, Hà Nội, 2006, tr. 20 – 23) * Chú thích: (1) Núi Lao Sơn: ngọn núi nổi tiếng ở phía đông nam tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. (2) Đạo sĩ: người tu tiên. (3) Bồ đoàn: chiếc chiếu đan bằng cỏ bồ, hình tròn, đê người đi tu hành quỳ hoặc ngồi cho êm, mỗi khi hành lễ. (4) Bắt quyết: dùng ngón tay đan chéo vào nhau kết thành chữ để làm phép. Thực hiện các yêu cầu sau: Câu 1. Hãy dẫn ra một chi tiết thể hiện rõ yếu tố “kì” trong văn bản truyện trên. Câu 2. Mục đích và kết quả của việc tu tiên học đạo của Vương Sinh là gì? Câu 3. Vì sao nói truyện có kết thúc bất ngờ? Kết thúc truyện như thế có ý nghĩa thế nào? Câu 4. Đặc điểm chung của các câu in đậm dưới đây là gì? Việc sử dụng những kiểu câu đó có tác dụng gì? – Đạo sĩ nói: Chỉ sợ anh sức yếu, không chịu nổi khó nhọc. Thưa là: “được”. – Vương bước xa bức tường mấy bước, đọc câu thần chú, bước nhanh tới, cảm thấy như chỗ trống không. Quay nhìn lại thì đã thấy mình ở bên kia tường. Mừng quá, vào lạy tạ xin về. Câu 5. Hãy chỉ ra sự khác biệt giữa yếu tố kì ảo trong văn bản truyện Đạo sĩ núi Lao với yếu tố kì ảo trong một truyện thần thoại mà anh/ chị đã học (đọc). II. PHẦN VIẾT Câu 1. Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích, đánh giá vai trò của yếu tố kì ảo trong văn bản truyện truyền kì Đạo sĩ núi Lao ở phần Đọc hiểu. Câu 2. Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh hai đoạn thơ sau:
Đáp án I. ĐỌC HIỂU Câu 1: Phương pháp: Đọc kĩ văn bản để xác định các chi tiết có yếu tố tưởng tượng, hư cấu Cách giải: – Đạo sĩ bèn cắt một miếng giấy tròn như tấm gương, dán lên vách. Phút chốc, ánh trăng vằng vặc từ trên vách chiếu xuống, sáng rõ cả ngọn cỏ, sợi tơ. – Đạo sĩ bèn lấy một chiếc đũa, vứt vào giữa Mặt Trăng. Bỗng thấy một người đẹp từ trong bóng sáng bước ra. Hoặc: – Đạo sĩ có thuật “đi đâu, tường vách không ngăn nổi” Câu 2: Phương pháp: Căn cứ vào nội dung văn bản để xác định Cách giải: – Mục đích tu tiên học đạo của Vương Sinh là học được phép thuật của vị tiên trên núi. – Kết quả: Học được thuật đi xuyên tường vách nhưng khi về nhà lại không thể thực hiện được, chẳng những cơ thể bị đau đớn mà còn xấu hổ vì bị vợ chê cười. Câu 3: Phương pháp: Đọc kĩ kết thúc truyện để đánh giá ý nghĩa Cách giải: – Truyện có kết thúc bất ngờ vì phần kết thúc không có hậu dành cho Vương Sinh. Sau nhiều ngày kham khổ tưởng rằng học được một thuật nhỏ để về áp dụng nhưng kết quả lại không được như mong muốn. – Ý nghĩa của kết truyện: học đạo là để giúp đời, làm những việc có ích nên không thể áp dụng phép thuật một cách tùy tiện hay để chỉ để khoe khoang; muốn đắc đạo, cần bền gan vững chí, sẵn sàng đối diện và vượt qua gian khổ. Câu 4: Phương pháp: Vận dụng kiến thức về các kiểu câu Cách giải: – Các câu in đậm đều là câu rút gọn thành phần chủ ngữ. Đây là một trong những biểu hiện của hiện tượng phá vỡ những quy tắc ngôn ngữ thông thường. – Tác dụng: nhấn mạnh, làm nổi bật nội dung thông tin cần chuyển tải (ở đây là lời nói, hành động của nhân vật Vương Sinh). Câu 5: Phương pháp: Liên hệ, so sánh 2 thể loại Cách giải: – Ở truyện thần thoại, yếu tố kì ảo chủ yếu nhằm giải thích nhận thức, cách lí giải của người cổ đại về các hiện tượng tự nhiên, vũ trụ; thường gắn với thần linh. – Với truyện truyền kì, yếu tố kì ảo góp phần tạo nên những nhân vật, hành động khác (bất) thường. qua đó, phản ánh những vấn đề của đời sống trần thế, hằng ngày của con người; không chỉ gắn với thế giới thần tiên mà còn thể hiện ở ma, quỷ. II. PHẦN VIẾT Câu 1: Phương pháp: * Mở đoạn: Yếu tố kì ảo có vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội dung và đặc trưng thể loại của văn bản truyện truyền kì Đạo sĩ núi Lao. * Thân đoạn: - Yếu tố kì ảo được thể hiện qua những chi tiết nào? + Vầng trăng sáng vằng vặc được tạo nên từ miếng giấy cắt hình tròn như tấm gương dán lên vách. + Hồ rượu nhỏ bao nhiêu người uống cũng không hết. + Chị Hằng Nga từ trên cung trăng (bằng giấy) bước xuống múa khúc Nghê Thường; chủ và khách, ba người lên chơi cung trăng. + Phép đi xuyên tường mà vị tiên dạy Vương Sinh. - Vai trò của yếu tố kì ảo là gì? + Thúc đẩy cốt truyện phát triển (không có các chi tiết này, câu chuyện có thể kết thúc ở đoạn Vương Sinh bỏ về sau một tháng lao động kham khổ. Vương chứng kiến phép thuật kì diệu của đạo sĩ đã tiếp tục ở lại thêm tháng nữa). + Giúp nhân vật bộc lộ tính cách (Vương Sinh ham mê học đạo; thích khoe khoang; không bền tâm vững chí). + Xây dựng một thế giới nhân vật khác thường (thần tiên, đạo sĩ, Hằng Nga) nhưng lại phản chiếu hình ảnh của thế giới con người (ham vui, dung tục). * Kết đoạn: - Yếu tố kì ảo góp phần quan trọng vào việc xây dựng thế giới nhân vật, bộc lộ chủ đề, thông điệp của truyện Đạo sĩ núi Lao. - Yếu tố kì ảo trong truyện truyền kì mang đặc trưng riêng so với các thể loại khác Cách giải: Yếu tố kì ảo đóng một vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội dung và khẳng định đặc trưng thể loại của văn bản truyện truyền kì "Đạo sĩ núi Lao". Trong tác phẩm, sự kì ảo được dệt nên bởi một loạt những chi tiết đầy quyến rũ: từ vầng trăng vằng vặc được tạo ra chỉ bằng một miếng giấy cắt dán lên vách, hồ rượu nhỏ bé mà bao nhiêu người uống cũng không hết, đến việc chị Hằng Nga từ trong ánh trăng bước xuống múa điệu Nghê Thường, và đỉnh điểm là phép thuật xuyên tường mà đạo sĩ truyền dạy cho Vương Sinh. Những chi tiết này không đơn thuần là phép màu để tô điểm cho câu chuyện thêm phần hấp dẫn, mà chúng giữ những vai trò nghệ thuật then chốt. Trước hết, chúng chính là chất xúc tác thúc đẩy cốt truyện: nếu không được chứng kiến những phép lạ ấy, Vương Sinh đã bỏ về ngay sau một tháng lao động khổ cực, và câu chuyện sẽ kết thúc ở đó. Đồng thời, chính trong thế giới kì ảo đó, tính cách nhân vật mới được bộc lộ rõ nét: sự ham mê, tính khoe khoang và sự thiếu kiên định của Vương Sinh được phơi bày qua phản ứng của chàng trước phép thuật và cuối cùng là sự thất bại của phép xuyên tường. Hơn thế nữa, yếu tố kì ảo đã giúp xây dựng một thế giới khác thường với thần tiên, đạo sĩ, nhưng lại như một tấm gương phản chiếu chân thực thế giới con người với những ham muốn trần tục và bản chất không hoàn hảo. Như vậy, có thể thấy yếu tố kì ảo đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng thế giới nghệ thuật, khắc họa tính cách nhân vật và chuyển tải thông điệp, triết lý sâu sắc của truyện. Qua đây, "Đạo sĩ núi Lao" cũng khẳng định đặc trưng riêng của thể loại truyền kì: sự đan xen giữa hiện thực và kì ảo, nơi cái kì ảo luôn hướng tới việc phản ánh và bình giá hiện thực đời sống con người. Câu 2: Phương pháp: - Hình thức: bài văn - Dung lượng: khoảng 600 chữ - Dạng bài: nghị luận văn học - Vấn đề nghị luận: so sánh “Và anh tồn tại” của Lưu Quang Vũ và “Nói cùng anh” của Xuân Quỳnh Cách giải: * Mở bài: Dẫn dắt, nêu khái quát điểm tương đồng và khác biệt của hai đoạn thơ đó. * Thân bài: - Giới thiệu chung về nhà thơ Lưu Quang Vũ và bài thơ ... Và anh tồn tại, nhà thơ Xuân Quỳnh và bài thơ Nói cùng anh. - So sánh hai đoạn thơ + Điểm giống nhau: Về nội dung (đề tài – cùng viết về tình yêu đôi lứa, cảm hứng chủ đạo – cùng ca ngợi tình yêu và sự đồng cảm, sẻ chia; tư tưởng – cùng khẳng định sự cần thiết và ý nghĩa của tình yêu đôi lứa đối với mỗi người). Về nghệ thuật (sử dụng thể thơ tự do; kết hợp giữa biểu cảm với tự sự; nhân vật trữ tình xuất hiện trực tiếp; sử dụng các hình ảnh liệt kê, so sánh và ẩn dụ; ngôn ngữ hàm súc; giọng điệu vừa tâm tình vừa triết lí;..). + Điểm khác nhau: Hai đoạn thơ chủ yếu khác nhau về nội dung cụ thể sau: . Đoạn thơ của Lưu Quang Vũ thể hiện sự nhận thức của nhân vật trữ tình “anh” về “em” và ca ngợi, trân trọng tình yêu của “em” đối với “anh”. Nhờ tình yêu của “em” mà anh trở thành “người có ích”, “sống vững vàng không sợ hãi” và hơn hết là “anh tồn tại”. . Đoạn thơ của Xuân Quỳnh thể hiện nhận thức của nhân vật trữ tình “em” về “anh” và tình yêu của hai người. Tình yêu mang đến cho “em” những niềm vui sướng hạnh phúc giản dị nhưng là “có thật”; tình yêu làm nảy sinh trong em nói riêng và mọi người nói chung những khát vọng (mong ước cao đẹp) ở con người, là lòng tốt để con người duy trì sự sống và sống nhân văn hơn, đẹp hơn. - Đánh giá + Hai đoạn thơ có nhiều điểm tương đồng về đề tài, cảm hứng chủ đạo, tư tưởng và hình thức thể hiện. + Đây là hai đoạn thơ hay viết về đề tài tình yêu đôi lứa của hai nhà thơ lớn trong nền văn học Việt Nam hiện đại; kết tinh những giá trị nghệ thuật và tư tưởng khi viết về đề tài này. * Kết bài: Nêu ấn tượng sâu đậm về hai đoạn thơ hoặc khẳng định hai đoạn thơ có sức hấp dẫn mãnh liệt đối với người đọc, nhất là những người trẻ tuổi và trẻ lòng.
|

