Đề thi học kì 1 Văn 12 Kết nối tri thức - Đề số 7Tải về(1) Người xưa có câu nói rất hay: “Nước chảy không thối, trục cửa không mọt”
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
Tải về
Đề thi I. ĐỌC - HIỂU Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu: (1) Người xưa có câu nói rất hay: “Nước chảy không thối, trục cửa không mọt” (1) (2) Nhà khoa học người Mĩ – Franklin từng nói câu tương tự: “Thói lười biếng cũng giống như gỉ sét, gây hại cho thân xác chúng ta hơn cả sự lao động vất vả. Chiếc chìa khóa thường xuyên dùng sẽ luôn sáng bóng.” (3) Để thấy rằng, mưu cầu an nhàn thật nguy hại. Bất luận ở hoàn cảnh nào, hễ ở trong trạng thái an nhàn, bất cứ lúc nào chúng ta cũng có khả năng bị nguy cơ xâm nhập, và chúng ta ngày càng trở nên an dật, yếu đuối, mất hết sức chống chọi. Chúng ta nên biết rằng sự cạnh tranh trong cuộc sống vốn rất khốc liệt và tàn nhẫn, chỉ những ai đã chuẩn bị đầy đủ mới có cơ hội sống sót. (4) Đừng để bản thân dừng quá lâu ở vùng dễ chịu, mà phải tìm cách đột phá khỏi nó. Hãy tự hỏi chính mình, bạn có yêu thích công việc đang làm hiện tại không? Điều gì khiến bạn bước vào sự an nhàn, đánh mất động lực, không chịu đột phá? Thế rồi căn cứ theo kì vọng và động cơ bản thân để đặt ra một mục tiêu phù hợp với dự định của mình. Một khi có mục tiêu rõ ràng, bạn sẽ tràn đầy động lực tiến bước về cái đích phía trước. (Đừng chọn an nhàn khi còn trẻ, Cảnh Thiên, NXB Thế giới, 2019) (1) Ngụ ý con người chăm chỉ hoạt động, làm lụng thì sẽ không bị lạc hậu, kém cỏi, mài mòn đi. Thực hiện các yêu cầu : Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản. Câu 2. Chỉ ra những nguy hại của việc mưu cầu an nhàn khi còn trẻ. Câu 3. Nêu nội dung đoạn (3), đoạn (4) và mối quan hệ giữa hai đoạn. Câu 4. Nêu cách hiểu của anh/chị về nội dung câu văn: Đừng để bản thân dừng quá lâu ở vùng dễ chịu, mà phải tìm cách đột phá khỏi nó. Câu 5. Từ tư tưởng tác giả gửi gắm trong văn bản trên, anh/chị suy nghĩ về sự cần thiết của lối sống có mục tiêu, lý tưởng đối với thế hệ trẻ. II. VIẾT Anh/chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích nhân vật Điền và Hộ trong hai đoạn trích dưới đây: Đoạn truyện (1) (Tóm tắt truyện: Hộ là một văn sĩ có tài; Hộ cưu mang Từ, có công cứu vớt đời Từ và Từ trở thành vợ Hộ. Hộ mải mê với văn chương, chung cuộc sống cơm áo không để Hộ ngồi yên mà viết văn, thưởng thức văn chương, … Túng quẫn và phẫn uất, Hộ chán nản lao vào rượu chè, say xỉn, … Mỗi lần say lại bốc đồng và về nhà làm khổ Từ…Khi tỉnh dậy, Hộ lại hối hận, ăn năn…) Sáng nay, chắc Từ mệt quá, vừa mới lịm đi, nên mới ngủ trưa như thế. Ðầu Từ ngoẹo về một bên. Một tay Từ trật ra ngoài mép võng, sã xuống, cái bàn tay hơi xòe ra lỏng lẻo. Dáng nằm thật là khó nhọc và khổ não. Hắn bùi ngùi. Chao ôi! Trông Từ nằm thật đáng thương! Hèn chi mà Từ khổ cả một đời người! Cái tướng vất vả lộ ra cả đến trong giấc ngủ. Hộ nhớ ra rằng: một đôi lúc, nếu nhìn kỹ thì Từ khó mặt lắm. Ðột nhiên Hộ nảy ra ý muốn lại gần Từ, nhìn kỹ xem mặt Từ lúc bây giờ ra sao? Hắn rón rén, đi chân không lại. Hắn ngồi xổm ngay xuống đất, bên cạnh võng và cố thở cho thật khẽ. Hắn ngắm nghía mặt Từ lâu lắm. Da mặt Từ xanh nhợt; môi nhợt nhạt; mi mắt hơi tim tím và chung quanh mắt có quầng, đôi má đã hơi hóp lại khiến mặt hơi có cạnh. Hộ khẽ thở dài và lắc đầu ái ngại. Hắn dịu dàng nắm lấy tay sã xuống của Từ. Cái bàn tay lủng củng rặt những xương! Trên mu bàn tay, những đường gân xanh bóng ra, làn da mỏng và xanh trong, xanh lọc. Cái cổ tay mỏng manh. Tất cả lộ một cái gì mềm yếu, một cái gì ẻo lả, cần được hắn che chở và bênh vực... Một vẻ bạc mệnh, một cái gì đau khổ và chật vật, cần được hắn vỗ về an ủi... Thế mà hắn đã làm gì để cho đời Từ đỡ khổ hơn? Hắn đã làm gì để cho Từ khỏi khổ? Nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc... Ôi chao! Hắn khóc! Hắn khóc nức nở, khóc như thể không ra tiếng khóc. Hắn ôm chặt lấy cái bàn tay bé nhỏ của Từ vào ngực mình mà khóc. Từ thức dậy, Từ hiểu ngay, không cần hỏi một câu nào cũng hiểu. Và Từ cảm động. Mắt Từ giàn giụa nước. Từ khẽ rút tay ra, vòng lên cổ chồng, nhẹ nhàng núi hắn vào, để hắn gục đầu lên cạnh ngực Từ. Hắn lại càng khóc to hơn và cố nói qua tiếng khóc: - Anh... anh... chỉ là... một thằng... khốn nạn!... - Không!... Anh chỉ là một người khổ sở!... Chính vì em mà anh khổ... Từ bảo thế. Tay Từ níu mạnh hơn một chút. Ngực Từ thổn thức. Từ chực ngả đầu sát vào vai Hộ. Nhưng đứa con, bị giằng, khóc thét lên. Từ vội buông chồng ra để vỗ con. Tiếng vẫn còn ướt lệ, Từ dỗ nó: - A! Mợ đây! Mợ đây mà! Ôi chao! Con tôi nó giật mình... Mợ thương... Hộ đã tránh chỗ để Từ đưa võng... Từ vừa đưa vừa hát: Ai làm cho gió lên giời, (Trích “Đời thừa” , Sách Ngữ văn 11 nâng cao, NXB GD 2010, tr.207) Đoạn truyện (2) (Tóm tắt truyện: Điền cả đêm mệt mỏi chăm con là thằng cu Chuyên ốm, sáng ra chuẩn bị lên tỉnh lĩnh tiền. Vợ dặn phải mua thuốc cho con bé Hường đang nổi mụn khắp mặt. Hắn cáu kỉnh, bực tức vì đủ thứ phải chi tiêu, nhưng lại không chịu nổi sự càu nhàu của vợ nên đành chịu. Bản thân hắn mắc bệnh ở tim, cũng chẳng có tiền để theo đuổi thuốc thang. Làm chẳng đủ ăn, chẳng dám mua một cái áo, một quyển sách, lại suốt ngày con ốm, con đau. Hắn ngao ngán cho kiếp mình. Để tiết kiệm tiền xe, mãi đến mười giờ Ðiền mới đi bộ tới trạm Quỳnh Nha, gặp ông đội Trạm để lĩnh thư, sau đó mới lên nhà dây thép lĩnh tiền, nhưng đụng độ với người thư ký khiến một tờ giấy bạc bay mất, Điền phải nhịn ăn sáng, lếch thếch đi bộ về để tiết kiệm tiền nhưng lại quên mua thuốc cho con. Cuộc cãi vã với vợ khiến “hắn thấy mình khổ quá, khổ như một con chó vậy”. Điền nằm ngẫm nghĩ, nhưng tiếng khóc thút thít của đứa con bị bệnh đã khiến Điền ngẫm lại về lẽ đời và thở dài ngao ngán cho kiếp mình và kiếp người: “Bây giờ trong lòng hắn chỉ còn lại sự xót thương. Hắn thương vợ, thương con, thương tất cả những người phải khổ đau. Lòng hắn thiết tha rướn lên muốn vươn ra để ấp ôm lấy mọi người. Mắt hắn đầm đìa”) […] Hắn vùng vằng đi vào nhà, quăng mũ quăng áo, quăng nốt cả cái thân xác mỏi mệt xuống một cái giường, thở hổn hển, như để đẩy bớt ra ngoài cái khí giận đang cuồn cuộn trong ngực. Hắn thấy mình khổ quá, khổ như một con chó vậy. Hắn nhịn đói từ sáng đến giờ. Hắn đi bộ què chân, nắng hơ sém cả da. Hắn xẻn từ đồng xu uống nước trở đi. Hắn chịu nhục với mọi người... Như thế, bởi vì đâu? Chẳng phải vì vợ vì con ư? Nhưng nào vợ con có thèm biết cho đâu! Ðã chẳng an ủi một lời, vợ hắn còn vơ lấy một sự hắn quên để mà đay nghiến hắn. Ừ, mà cho rằng hắn không quên nữa, cho rằng hắn không lấy thuốc cho con là cố ý, là muốn khỏi mất mấy đồng bạc nữa, thì vợ hắn có nên nói tệ hắn như vậy hay không? Hắn hà tiện vì ai? Hắn khổ sở vì ai, riêng vào cái thân hắn chẳng phí phạm một đồng xu nào cả. Mấy mươi lần vợ hắn giục hắn may một cái áo sơ-mi, hắn chỉ ư hừ rồi để đấy, chưa bao giờ dám bỏ tiền ra mà may cả. Thế rồi bao nhiêu tiền cũng vào vợ, vào con hết... Hắn bủn xỉn, hắn tiếc tiền... ừ, nhưng mà hắn tiếc tiền cho ai?... Ðiền cứ càng nghĩ càng thấy hắn là người khổ, vợ hắn là người tệ bạc. […] Nhưng bỗng con bé Hường chạy vội ra đầu chái, về phía giường Ðiền. Ðiền nghe tiếng đôi guốc của nó lẹc kẹc rất nhanh một thoáng, rồi im lặng. Rồi Hường xịt mũi. Nó xụt xịt rất lâu ngoài ấy. Nó nghẹt mũi hay nó khóc? Ðiền cố lắng tai nghe. Hắn nghe thấy những tiếng Hường nức nở. Hắn đột nhiên run người. Lòng hắn quang ra. Những ý giận hờn bừa bộn vụt tan. Còn lại cái hình ảnh bé nhỏ của Hường, với cái mặt đầy mụn và sưng lên của nó, đôi mắt giàn giụa nước và miệng mếu. Con bé còn nhỏ tuổi nhưng đã rất hay khóc vụng; mỗi lần muốn khóc, nó lại tránh ra một chỗ, cố nén tiếng, không cho ai biết. Ðiền thấy thương nó quá. Tội nghiệp cho con bé! Nó ốm đau luôn và thường bị mẹ mắng chửi suốt ngày như tát nước. Mẹ nó mắng chửi nó, nhiều khi bất công và vô lý. Nhưng lạ thay! Lúc này Ðiền không vin vào đấy mà trách vợ. Hắn thấy vợ hắn không tệ. Thị vốn thương con lắm. Những lúc thị gắt gỏng với con như thế chỉ là những lúc thị sốt ruột quá, lo lắng quá. Cũng như hắn vậy, sao hắn nỡ đem lòng giận thị? Ai chả thế? Người không phải là thánh. Sự khổ sở dễ khiến lòng chua chát. Khi người ta lam lũ quá, lại còn lo trăm thứ, bị làm rầy vì trăm thứ, thì ai mà bình tĩnh được? Ai mà chả hay gắt gỏng? Gắt gỏng thì chính mình khổ trước. Không giữ được thì phải bật ra ngoài như vậy. Thật ra có ai muốn cau có làm chi?... Vậy thì vợ hắn gắt lên với hắn lúc này cũng chỉ là việc thường thôi. […] Bây giờ trong lòng hắn chỉ còn lại sự xót thương. Hắn thương vợ, thương con, thương tất cả những người phải khổ đau. Lòng hắn thiết tha rướn lên, muốn vươn ra để ấp ôm lấy mọi người. Mắt hắn đầm đìa. Hắn gọi con rất dịu dàng: - Hường ơi!... Vào đây với thầy con!... (Trích Nước mắt, Nam Cao, Nam Cao truyện ngắn tuyển chọn, NXB Văn học, 2016) Chú thích: Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri (1915 – 1951), quê ở Lý Nhân, Hà Nam. Ông là một nhà văn hiện thực phê phán (trước Cách mạng) và được xem là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của thế kỉ XX. Nam Cao còn là người có đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách viết truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỉ XX. Ông được sinh ra trong một gia đình công giáo bậc trung. Nam Cao làm rất nhiều công việc mưu sinh khác nhau, làm thư ký cho một hiệu may, dạy học, viết báo kiếm sống,.. với vốn sống phong phú Nam Cao đã cho ra đời rất nhiều tác phẩm có giá trị cho đến ngày nay. Các tác phẩm chính: Chí Phèo (truyện ngắn, 19419), Lão Hạc (truyện ngắn, 1943), Sống mòn (tiểu thuyết, 1944)
Đáp án I. ĐỌC - HIỂU Câu 1: Phương pháp: Vận dụng kiến thức về các phương thức biểu đạt để xác định Cách giải: Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận Câu 2: Phương pháp: Đọc kĩ văn bản để xác định các chi tiết phù hợp Cách giải: - Bất cứ lúc nào chúng ta cũng có khả năng bị nguy cơ xâm nhập, - Chúng ta ngày càng trở nên an dật, yếu đuối, mất hết sức chống chọi. Câu 3: Phương pháp: Đọc kĩ đoạn (3) và (4) để xác định nội dung và chỉ ra mối quan hệ Cách giải: - Đoạn (3): Nêu những nguy hại của trạng thái an nhàn - Đoạn (4): Khuyên mỗi chúng ta nên từ bỏ lối sống an nhàn, xác định mục tiêu đúng đắn để tiến về phía trước - Mối quan hệ giữa đoạn (3) và đoạn (4): Quan hệ nguyên nhân – hệ quả Câu 4: Phương pháp: Phân tích câu văn Cách giải: Câu văn “Đừng để bản thân dừng quá lâu ở vùng dễ chịu, mà phải tìm cách đột phá khỏi nó” có thể hiểu như sau: - Dừng quá lâu: trì hoãn thời gian, không chịu thay đổi - Vùng dễ chịu: không gian an nhàn, không phải gian khổ, vất vả - Tìm cách đột phá: cách thức thay đổi trạng thái hiện tại một cách mạnh mẽ, quyết liệt,... → Có thể hiểu nội dung câu văn như sau: Chúng ta không nên trì hoãn thời gian quá lâu trong việc chọn lối sống an nhàn thoải mái mà phải dứt khoát từ bỏ lối sống đó để tạo ra bước phát triển mới cho bản thân, khẳng định mình và sống có ý nghĩa,.. Câu 5: Phương pháp: Gợi ý: - Suy nghĩ về sự cần thiết của lối sống có mục tiêu, lý tưởng đối với thế hệ trẻ: + Giúp ta có hướng đi đúng cho cuộc đời mình + Cho ta thêm động lực để phấn đấu, để thành công, sẵn sàng đối mặt với khó khăn, thử thách,... + Trở nên hoàn thiện về tâm hồn và nhân cách, rèn luyện cho con người những phẩm chất đáng quý: chăm chỉ, cần cù, lạc quan,... Cách giải: Tư tưởng chủ đạo mà tác giả gửi gắm qua văn bản đã làm nổi bật sự cần thiết của một lối sống có mục tiêu và lí tưởng, đặc biệt là với thế hệ trẻ. Khi có mục tiêu rõ ràng, tuổi trẻ sẽ tìm thấy la bàn cho hành trình của mình, không còn bơ vơ, lạc lối hay dễ dàng chấp nhận sự tầm thường. Lí tưởng và mục tiêu chính là ngọn lửa thôi thúc bên trong, tiếp thêm sức mạnh để vượt qua những cám dỗ của "vùng an toàn" và kiên cường đương đầu với thử thách. Hơn hết, nó biến mỗi cá nhân từ kẻ thụ động, chỉ biết tồn tại, trở thành một chủ thể tích cực, chủ động kiến tạo cuộc đời và đóng góp giá trị cho xã hội. Một cuộc sống không có mục tiêu cũng giống như một con thuyền ra khơi không có bến đỗ, mãi mãi lênh đênh và dễ dàng bị nhấn chìm bởi những cơn sóng dữ của sự trì trệ và thất bại. Vì vậy, sống có lí tưởng không chỉ là lựa chọn, mà đó là trách nhiệm của tuổi trẻ với chính tương lai của mình. II. VIẾT Phương pháp: 1. Mở bài: giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận Mở bài: - Giới thiệu tác giả, tác phẩm - Giới thiệu các nhân vật: Điền và Hộ là những người trí thức nghèo với gánh nặng áo cơm, qua đó đã làm nổi bật nên tấn bi kịch của người trí thức trong xã hội cũ 2. Thân bài: a. Nhân vật Điền - Tình huống: Nam Cao đã đặt nhân Điền vào tình huống khiến Điền phải nóng giận, bực tức: Điền đi nhận lương, có một tờ tiền bị rách, Điền chẳng những không đổi được mà còn làm mất luôn tờ tiền đó. Vì nghèo, khổ, mất tiền, Điền sinh ra tiếc, rồi bực mình. Về nhà lại nghe vợ càu nhàu do quên mua thuốc cho con, Điền càng thêm cáu gắt, trút bực tức lên vợ con mình. - Vẻ đẹp nhân vật Điền: + Điền là người có thương vợ, thương con: Anh nhịn ăn, nhịn tiêu, không dám mua sách, mua áo để lấy tiền cho vợ con; anh thương con bé Hường bị ốm, ôm nó vào lòng, quạt cho nó; anh thấu hiểu cho sự khó tính, hay cằn nhằn của vợ… + Điền là người nhân hậu, bao dung: Biết đặt mình vào hoàn cảnh người khác để thấu hiểu cho vợ, cho con gái, cho ông ký ở nhà dây thép. + Điền là người trí thức có ý thức phản tỉnh cao, luôn nghiêm khắc với bản thân: Từ chỗ ích kỉ trong suy nghĩ, giận dỗi với mọi người, anh dần tự xem xét để nhận ra lỗi sai của mình, để có cái nhìn nhân ái hơn. - Đặc biệt, truyện mang đến thông điệp về đôi mắt tình thương: Người ta chỉ xấu xa trong đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ. Mỗi người cần có đôi mắt tình thương khi nhìn đời, nhìn người – tức là đặt mình vào hoàn cảnh người khác; nhìn bằng đôi mắt cảm thông, thấu hiểu, có như vậy mới yêu thương và trân trọng cuộc đời, con người. b. Nhân vật Hộ - Tình huống: Hộ là một nhà văn nghèo có lương tâm và có tài. Khi chưa có vợ con “với cách viết thận trọng của hắn, hắn chỉ kiểm được vừa đủ để một mình hắn sống một cách eo hẹp, có thể nói là cực khổ”. Nhưng từ khi “đã ghép đời Từ vào cuộc đời của hắn”, với một bầy con thơ “nhiều đen, nhiều sài, quấy rức, khóc mếu suốt ngày đêm và quanh năm uống thuốc”, thì Hộ đã rơi vào tấn bi kịch ghê gớm, bị cái nợ áo cơm ghì sát đất! Hộ cứ luẩn quẩn mãi trong bao nỗi khổ tâm “thứ nhất con đói, thứ hai nợ đòi, thứ ba nhà dột” như dân gian đã nói. - Vẻ đẹp nhân vật Hộ: + Hộ là một con người giàu tình thương: Hộ đã hành động một cách cao đẹp là nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ. + Hộ là một nhà văn trải qua một bi kịch tinh thần đau đớn, dai dẳng: ++ Anh mang trong mình hoài bão lớn nhưng vì gánh nặng áo cơm Hộ cho in cuốn văn vội, anh xấu hổ khi đọc lại văn mình, tự xỉ vả mình là một thằng khốn nạn, là một kẻ bất lương. ++ Hộ đã tìm đến rượu để giải sầu, càng ngày hắn càng lún sâu vào bi kị say rượu và đối xử vũ phu với vợ con. Tỉnh rượu lại bẽn lẽn xin lỗi Từ, hứa chừa rượu, được một thời gian ngắn, lại say, lại đánh vợ, những trò vừa buồn cười, vừa đáng sợ như lần trước. ++ Và hắn khóc… Ôi chao! Hắn khóc! Hắn khóc nức nở… Rồi hắn tự lên án mình chỉ là một thằng… khốn nạn! ++ Và câu hát ru còn thấm lệ của Từ như tô đậm thêm bi kịch của Hộ, của hai vợ chồng. Nỗi đau ấy được cực tả qua câu hát cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thương. Tiếng khóc của Hộ, tiếng khóc của Từ mang ý nghĩa tố cáo cái xã hội tàn ác đã cướp đi mọi ước mơ, đã đày đọa cuộc sống của mỗi gia đình, đã đầu độc tâm hồn con người và làm méo mó mối quan hệ vốn tốt đẹp giữa người với người. ++ Cũng qua nhân vật Hộ, Nam Cao đã thể hiện ngòi bút hiện thực vừa tỉnh táo, vừa sắc lạnh, vừa nặng trĩu suy nghĩ đằm thắm yêu thương. Nghệ thuật phân tích nội tâm nhân vật cho người đọc vô cùng thấm thía về bi kịch của một tri thức nghèo, của một nhà văn nghèo trong xã hội cũ. c. So sánh: - Giống: Cả 2 đều là những người mang danh trí thức nhưng thực chất nghèo khổ, cơ cực, bị gánh nặng áo cơm "ghì" sát đất. Nhưng cả 2 đều là những người có có vẻ đẹp đáng trân trọng - Khác: + Hộ vì lẽ sống tình thương mà cứu vớt cuộc đời Từ, nhưng cuối cùng chính anh lại chà đạp nên lẽ sống của mình, rồi Hộ lại day dứt lương tâm, hối hận đến đau đớn. Đó là cái đau đớn của sự tha hóa. Đêm về, khi Hộ đã tỉnh rượu và tỉnh ngộ, Hộ đã có sự bừng tỉnh của lương tâm và lương tri. Đó là sự bừng tỉnh của phần người trong con người. Nhìn người vợ đáng thương với cái dáng nằm thật là khó nhọc và khổ não. Đó là lúc Hộ đẹp nhất, là lúc con người lương tri, con người lương tâm thức tỉnh. Chuyện kết thúc nhưng cuộc đời Hộ chưa khép lại. Cảnh cuối cùng với những giọt nước mắt Hộ đã làm người đọc ít nhiều hy vọng nó sẽ thanh lọc tâm hồn, nâng đỡ nhân cách của anh, giữ anh lại trước vực thẳm sa ngã. + Điền không hoàn hảo, có những lúc cũng ích kỉ, gia trưởng, hẹp hỏi, thô lỗ. Nhưng vượt lên tất cả, Điền đã tự đấu tranh với chính phần “con” trong mình để vươn tới một lối sống nhân hậu, giàu tình thương hơn. Và ở Điền cong cho thấy: người ta chỉ xấu xa trong đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ. Mỗi người cần có đôi mắt tình thương khi nhìn đời, nhìn người – tức là đặt mình vào hoàn cảnh người khác; nhìn bằng đôi mắt cảm thông, thấu hiểu, có như vậy mới yêu thương và trân trọng cuộc đời, con người. - Đánh giá: Cả hai truyện đều viết viết về đề tài người trí thức. 3. Kết bài: - Khẳng định lại giá trị tác phẩm và tài năng của tác giả Cách giải: Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam giai đoạn 1930 1945. Ông đã dành nhiều trang viết xúc động về số phận những người trí thức nghèo trong xã hội cũ. Qua hai truyện ngắn "Đời thừa" và "Nước mắt", hình tượng nhân vật Hộ và Điền hiện lên với những bi kịch day dứt, nhưng ẩn sâu trong đó là vẻ đẹp tâm hồn đáng trân trọng. Nhân vật Điền trong "Nước mắt" là điển hình cho người trí thức nghèo bị cái đói, cái khổ dồn đến chân tường. Một ngày của Điền là chuỗi dài những bực dọc, tủi nhục từ việc nhịn đói đi bộ cả chục cây số, bị người thư ký khinh miệt, làm mất tiền, đến việc về nhà nghe vợ càu nhàu. Sự bế tắc ấy khiến anh trở nên cáu kỉnh, ích kỷ, đổ lỗi cho vợ con là nguyên nhân của mọi khổ đau. Thế nhưng, vượt lên trên tất cả, Điền vẫn là một con người nhân hậu. Sự thức tỉnh của anh bắt đầu từ tiếng khóc thút thít của đứa con gái bé bỏng. Khoảnh khắc ấy, mọi giận hờn trong lòng anh tan biến, nhường chỗ cho tình thương yêu. Điền nhận ra nỗi khổ của vợ, thương cho con, và thấu hiểu cho cả những người cùng cảnh ngộ. Giọt nước mắt đầm đìa cuối truyện không phải là sự yếu đuối, mà là biểu hiện của một trái tim giàu lòng trắc ẩn, khao khát vươn ra để ấp ôm lấy mọi người. Ở nhân vật Điền, Nam Cao gửi gắm thông điệp sâu sắc về đôi mắt tình thương, rằng chỉ khi biết đặt mình vào hoàn cảnh người khác, ta mới có thể cảm thông và yêu thương thực sự. Nếu như Điền tìm thấy sự giải thoát trong tình thương, thì Hộ trong "Đời thừa" lại chìm sâu hơn vào bi kịch. Vốn là một nhà văn tài năng với những hoài bão lớn lao về nghệ thuật, Hộ đã phải từ bỏ giấc mơ vì gánh nặng cơm áo. Anh trở thành kẻ đời thừa, thừa trong chính gia đình mình, thừa trong sự nghiệp văn chương. Cái nghèo khiến Hộ tha hóa, từ một người đàn ông nhân hậu, sẵn sàng cưu mang Từ, anh trở thành kẻ vũ phu mỗi lần say rượu. Nhưng đau đớn hơn cả là sự dằn vặt, tự ý thức về bi kịch của chính mình. Cảnh Hộ khóc khi nhìn vợ ngủ là một trong những chi tiết xúc động nhất. Những giọt nước mắt bật ra chứa đựng nỗi đau đớn tột cùng của một con người ý thức được mình đang phản bội lại lẽ sống tình thương. Lời tự trách "Anh chỉ là một thằng khốn nạn" là sự tự phán xét nghiêm khắc của lương tâm. Ở Hộ, ta thấy sự giằng xé không lối thoát giữa khát vọng cá nhân và trách nhiệm gia đình, giữa con người lương tri và sự tha hóa. Cả Hộ và Điền đều là nạn nhân của xã hội cũ, nơi cơm áo gạo tiền khiến những người trí thức không thể sống xứng đáng với nhân cách và tài năng. Họ đều có những phẩm chất đáng quý như giàu lòng thương yêu, có ý thức về nhân cách, và luôn day dứt, trăn trở về lẽ sống. Sự khác biệt nằm ở cách họ ứng phó với bi kịch. Nếu Hộ rơi vào vòng xoáy của sự tha hóa và tự hủy hoại, thì Điền đã tìm thấy sự cứu rỗi trong tình yêu thương. Hộ đau khổ vì không thể thực hiện được hoài bão nghệ thuật, còn Điền đau khổ vì không thể bảo vệ được hạnh phúc gia đình. Cả hai bi kịch ấy đều phản ánh chân thực số phận người trí thức trong xã hội đương thời. Qua hai nhân vật Điền và Hộ, Nam Cao không chỉ phơi bày hiện thực xã hội tàn khốc, mà còn thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc. Ông trân trọng những vẻ đẹp tâm hồn ẩn sâu trong mỗi con người, dù họ có bị vùi dập đến đâu. "Nước mắt" và "Đời thừa" xứng đáng là những kiệt tác văn học, mãi mãi khiến người đọc thổn thức về số phận con người và day dứt về những giá trị nhân văn cần được gìn giữ.
|

