Đề thi học kì 1 Văn 9 - Đề số 12Tải về PHẦN I. ĐỌC - HIỂU (4,0 điểm) Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi: MỘT LẦN VÀ MÃI MÃI (Trích) Cứ trưa trưa, bọn trẻ chúng tôi lại rủ nhau tụ tập dưới tán những cây bàng ở giữa làng. Thằng Bá, một thằng mập ú, khôn ngoan và lanh lợi nhất trong bọn, đứng ra cầm đầu chúng tôi. Nó khinh khỉnh đưa mắt lướt qua để nhẩm đếm số lượng rồi phân chúng tôi ra làm hai nhóm.
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
Đề thi PHẦN I. ĐỌC - HIỂU (4,0 điểm) Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi: MỘT LẦN VÀ MÃI MÃI (Trích) Cứ trưa trưa, bọn trẻ chúng tôi lại rủ nhau tụ tập dưới tán những cây bàng ở giữa làng. Thằng Bá, một thằng mập ú, khôn ngoan và lanh lợi nhất trong bọn, đứng ra cầm đầu chúng tôi. Nó khinh khỉnh đưa mắt lướt qua để nhẩm đếm số lượng rồi phân chúng tôi ra làm hai nhóm. Xong đâu đấy, nó đưa hai ngón tay vào mồm huýt lên một hồi còi. Lập tức, chúng tôi xông vào cuộc quần nhau chí tử với quả bóng được bện bằng giẻ rách. Khi thấy chúng tôi mệt lử, thằng Bá lại đưa hai ngón tay vào mồm huýt lên một hồi còi nữa: ấy là hiệu lệnh cho nghỉ. Chúng tôi, đứa nào đứa nấy ngồi bệt xuống gốc cây bàng thở hổn hển. Một lúc sau, Bá lại đưa hai ngón tay vào mồm huýt lên một hồi còi nữa. Đó là lệnh bảo chúng tôi đến quán bà Bảy Nhiêu mua kẹo, mua đường "bồi dưỡng". Lập tức đứa nào đứa nấy đều thò tay vào túi lôi ra những tờ bạc tín phiếu(1) nát nhàu mà chúng tôi cạy cục xin mẹ rồi chạy ù đi... Quán bà Bảy Nhiêu nằm gần một khu mả đá, được bao bọc bởi những hàng rào bàn chải. Đó là một cái chòi tranh rách nát như vậy. Trong chòi có đặt một cái bàn gỗ đã cũ, hai cái ghế băng cũng đã già nua như vậy, một cái đã hỏng mất một chân. Trên chiếc bàn gỗ có xếp mấy lọ kẹo, đường táng, những thứ mà bà con nông dân tự làm lấy. Bà Bảy Nhiêu sống có một mình. Người trong làng không ai rõ chồng con bà đã mất từ lúc nào, mà cũng có thể là bà chưa hề có chồng con gì cả. Trước đây, mắt bà còn tinh nhưng độ hai năm nay bà bị lòa. Người ta bảo nhà bà ở gần động cát quá, nên gió thổi cát vào mắt nhiều lần, lâu ngày mà nó vậy. Chúng tôi nhao nhao: - Bán cho con một đường, bà. - Bán cho con hai viên kẹo bi, bà. - Bán cho con một táng đường, một viên kẹo bi, bà. Bà Bảy Nhiêu run run đưa bàn tay trái lên cầm tiền của chúng tôi, bỏ ngay vào cái cơi trầu bà đặt dưới bàn, tay phải quờ quờ lục vào các lọ lấy kẹo, đường cho từng đứa. Hầu như không bao giờ bà đếm tiền. Bà tin chúng tôi. Trưa hôm đó, sau hiệu lệnh của thằng Bá, tôi cho tay vào túi. Những tờ bạc lẻ mà mẹ tôi cho đã biến đâu mất. Tôi ngần ngừ một lúc nhưng nỗi thèm ngọt đã khiến tôi lủi thủi theo sau các bạn mong được "ăn ghẹ" của một đứa nào đấy. Giữa đường, nghĩ xấu hổ, tôi quay lại... Sao mày không đi mua đường, mua kẹo? - Thằng Bá đi phía sau hỏi tôi. - Tao không có tiền. Bá cười sằng sặc: - Chớ hồi giờ tao đâu có tiền mà vẫn mua được kẹo. Tôi ngạc nhiên: - Chớ lâu nay mày mua bằng thứ gì? Bá không trả lời ngay. Nó kéo tôi sát lại gần nó, rút trong túi ra một tờ giấy đã viết, được cắt gọn gẽ như một tờ giấy bạc, nói thì thầm: - Tao chuyên đưa bà Bảy những tờ giấy này. Bả mù, bả đâu có thấy - Nó ngừng một lát rồi tiếp - tao có ba tờ, tao cho mày một tờ. Mày đợi tụi nó mua xong, cuối cùng mình mới mua. Tôi ngần ngại một lát nhưng cuối cùng cũng cầm tờ giấy lộn. Tôi có cảm giác khi cầm tờ "bạc giả" của tôi, mắt bà Bảy Nhiêu như có tia sáng lóe lên. Nhưng bà không nói gì, vẫn bỏ nó vào cơi trầu và đưa táng đường đen cho tôi. Ngày hôm sau, sự việc vẫn lặp lại y như ngày hôm trước. Có điều, khi tôi và Bá đến quán thì không có chuyện mua bán xảy ra. Các bạn đến trước đều đứng tụm lại giữa quán nhìn sững vào trong nhà bà Bảy. Trong nhà có tiếng người lao xao. Một bác nông dân quen biết trong làng đang ngồi trước cửa vừa giở cơi trầu của bà Bảy ra đếm tiền, vừa nói vọng ra: - Tụi bay về đi. Bà Bảy trúng gió chết hồi hôm rồi. Chúng tôi sững sờ, đứng im không nhúc nhích. Bác nông dân lẩm bẩm điều gì đó rồi quay vô nhà nói với ai đó: - Số tiền này vừa mua đủ một chiếc chiếu gói bả đấy - Im lặng một lúc rồi bác tiếp - Bả mù mà tinh thật. Bọn xỏ lá nào đưa giấy lộn cho bả, bả cũng nhận rồi gói riêng ra… Tôi và Bá đứng như chôn chân xuống đất. Sống lưng lạnh buốt. Từ đó đến nay đã bốn mươi năm trôi qua. Bạn bè của tôi không còn đủ đông như trước. Mấy chục năm chiến tranh đã xáo trộn chúng tôi. (…) Riêng tôi may mắn, được đi tập kết, được học hành để trở thành một nhà văn. Cứ mỗi lần về quê, tôi lại rủ Bá ra thăm mả bà Bảy Nhiêu. Cả hai đều đứng lặng, miệng lầm rầm cầu mong bà tha thứ... Trong đời, có những điều ta lầm lỡ, không bao giờ có dịp để sửa chữa được nữa. (Thanh Quế, trích 65 truyện ngắn hay dành cho thiếu nhi) Chú thích: Bạc tín phiếu: tờ bạc dùng ở vùng tự do Khu V trong khángN chiến chống Pháp. Câu 1. Xác định ngôi kể của văn bản. Câu 2. Chỉ ra một phép liên kết hình thức được sử dụng trong đoạn văn in đậm của văn bản. Câu 3. Em có nhận xét gì về nhân vật Bà Bảy trong văn bản? Câu 4. Em hiểu như thế nào về câu văn “Trong đời, có những điều ta lầm lỡ, không bao giờ có dịp để sửa chữa được nữa”? Câu 5. Những thông điệp được gợi ra từ văn bản trên là gì? PHẦN II: VIẾT (6,0 điểm) Câu 1: Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) phân tích nội dung, chủ đề đoạn trích truyện “Một lần và mãi mãi” đã dẫn ở phần đọc hiểu. Câu 2: Trong thời kì hội nhập toàn cầu, giới trẻ đứng trước nhiều lựa chọn về cách sống và học tập. Theo em, nên “chủ động học hỏi để hòa nhập với thế giới” hay “giữ gìn bản sắc để không bị hòa tan”? Viết bài văn nghị luận (khoảng 400 chữ) trình bày suy nghĩ của em. Đáp án PHẦN ĐỌC HIỂU (6.0 điểm) Câu 1. Phương pháp: Chú ý lời của người kể chuyện Cách giải: Truyện được kể ở ngôi thứ nhất Câu 2. Phương pháp: Vận dụng kiến thức về các phép liên kết trong câu Cách giải: - Phép lặp: lặp từ “chúng tôi”, “nó” - Phép thế: từ “nó” thế cho “thằng Bá” Câu 3. Phương pháp: Đọc và chú ý các chi tiết miêu tả nhân vật bà Bảy Cách giải: - Bà bảy là người phụ nữ có hoàn cảnh bất hạnh: sống một mình, mù lòa, chết vì trúng gió trong cô quạnh - Bà Bảy là người có tấm lòng bao dung, nhân hậu: + Luôn tin tưởng vào bọn trẻ: không bao giờ đếm tiền + Dù biết bọn trẻ dùng giấy lộn để mua kẹo bà vẫn không vạch trần hay trách móc chúng + Bà là tấm gương về lối sống bao dung, nhân hậu Câu 4. Phương pháp: Dựa vào ngữ cảnh để xác định Cách giải: Câu văn: “Trong đời, có những điều ta lầm lỡ, không bao giờ có dịp để sửa chữa được nữa” được hiểu là: + Trong cuộc đời, có những sai lầm dù có muốn nhưng cũng không có cơ hội để sửa chữa khiến ta sống mãi trong sự hối hận, day dứt + Nhắc nhở mỗi chúng ta về lối sống trung thực, tử tế, không làm người khác bị tổn thương, tránh những hành động sai lầm để không phải hối hận, day dứt khi không có cơ hội sửa chữa Câu 5. Phương pháp: Từ nội dung rút ra thông điệp phù hợp Cách giải: - Giá trị của sự trung thực và lòng tin: Câu chuyện nhấn mạnh tầm quan trọng của sự trung thực trong các mối quan hệ giữa người với người - Sự hối hận và lương tâm: lương tâm luôn là một phần quan trọng trong mỗi con người và nó sẽ trỗi dậy khi chúng ta làm điều sai trái - Sự tha thứ và lòng bao dung - Những sai lầm không thể sửa chữa: có những hành động, dù nhỏ, cũng có thể gây ra hậu quả lớn và không thể nào bù đắp được PHẦN II Câu 1. Phương pháp: - Đảm bảo cấu trúc và dung lượng đoạn văn. - Đảm bảo yêu cầu nội dung: Phân tích nội dung, chủ đề truyện HS có thể triển khai theo nhiều cách nhưng cần đưa ra luận điểm chính xác, lập luận chặt chẽ, sử dụng bằng chứng thuyết phục. Cách giải: * Mở đoạn: - Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nhận định khái quát về tác phẩm: câu chuyện chứa đựng bài học quý giá trong cuộc sống. * Thân đoạn: Phân tích nội dung, chủ đề của truyện: - Nội dung của tác phẩm: Truyện xoay quanh kỷ niệm tuổi thơ của nhân vật "tôi" và bạn bè với bà Bảy Nhiêu- một người phụ nữ nghèo khổ, mù lòa, bán kẹo, bán đường cho bọn trẻ trong làng. Trong một lần vì đánh rơi mất tiền, không có tiền mua kẹo nên nhân vật “tôi” đã được Bá mách cho cách dùng giấy lộn để mua kẹo của bà Bảy. Vì nỗi thèm ngọt mà nhân vật “tôi” đã làm theo Bá. Bà Bảy dù nhận ra hành động của “tôi” và Bá nhưng vẫn bán kẹo cho chúng như không có chuyện gì. Khi “tôi” và Bá định lặp lại chuyện đó thì biết bà Bảy đã qua đời. Cả hai bàng hoàng, sững sờ. Để rồi 40 năm trôi qua, cứ mỗi lần về quê, “tôi” lại rủ Bá ra thăm mả bà Bảy Nhiêu cầu mong bà tha thứ...và rút ra một bài học sâu sắc: Trong đời, có những điều ta lầm lỡ, không bao giờ có dịp để sửa chữa được nữa. - Chủ đề: Từ câu chuyện giản dị này, nhà văn thể hiện một cách tinh tế, chân thực sự ăn năn, hối hận của nhân vật “tôi” và Bá, tấm lòng bao dung, nhân hậu của nhân vật bà Bảy Nhiêu, từ đó đặt ra nhiều vấn đề đáng suy ngẫm về lỗi lầm, sự ân hận và lối sống tử tế trong cuộc sống. - Các yếu tố nghệ thuật góp phần thể hiện chủ đề: + Ngôi kể thứ nhất. + Nhan đề. + Xây dựng tình huống truyện bất ngờ. * Kết đoạn: Khẳng định lại chủ để và nêu thông điệp gợi ra từ chủ đề. Câu 2. Phương pháp: a. Đảm bảo cấu trúc, dung lượng bài văn nghị luận. Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề. b. Xác định đúng vấn đề nghị luận thể hiện quan điểm, suy nghĩ: Kết hợp hài hòa hai yếu tố. c. Triển khai vấn đề HS có thể viết bài theo nhiều cách trên cơ sở kết hợp được lý lẽ và bằng chứng để tạo tính chặt chẽ, logic của quan điểm nêu ra, sau đây là một hướng giải quyết. Cách giải: I. Mở bài: - Nêu vấn đề, trích dẫn câu hỏi. - Nêu quan điểm của bản thân: cần chủ động học hỏi để hòa nhập với thế giới, song hành giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. II. Thân bài: Cần triển khai các ý: 1. Giải thích - “Chủ động học hỏi để hòa nhập với thế giới”: Là tinh thần sẵn sàng tiếp cận cái mới, tiếp thu tri thức toàn cầu, trau dồi kỹ năng để thích nghi và phát triển trong môi trường quốc tế. -“Giữ gìn bản sắc để không bị hòa tan”: Là sự kiên định, trân trọng và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc như lòng yêu nước, tính trung thực, lối sống thủy chung, nghĩa tình…, không để bản thân đánh mất cội nguồn trong quá trình tiếp xúc với thế giới. -> Sự kết hợp giữa “chủ động học hỏi để hòa nhập thế giới “với” giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc” là lựa chọn tích cực và phù hợp nhất với giới trẻ trong thời đại toàn cầu hóa, giúp giới trẻ trở thành những công dân toàn cầu năng động, sáng tạo nhưng vẫn mang đậm bản sắc Việt Nam. 2. Bàn luận khẳng định. a. Ý nghĩa của việc “chủ động học hỏi để hòa nhập với thế giới”: + Mở rộng được tầm nhìn, nâng cao kiến thức và hiểu biết về thế giới. + Tiếp cận được những phương pháp học tập và làm việc hiệu quả. + Tăng cơ hội việc làm và phát triển sự nghiệp trong môi trường quốc tế. + Góp phần vào sự phát triển chung của đất nước thông qua việc ứng dụng những tiến bộ của thế giới. + Góp phần xây dựng thế hệ công dân toàn cầu năng động, góp phần đưa hình ảnh đất nước vươn xa. (Bằng chứng). b. Ý nghĩa của việc “Giữ gìn bản sắc để không bị hòa tan” - Bản sắc văn hóa dân tộc là những giá trị cốt lõi không thể thiếu của mỗi con người Việt Nam. Cần phải giữ gìn để truyền cho các thế hệ mai sau. - Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là biểu hiện của lòng yêu nước, của lòng tự tôn dân tộc, khẳng định vị thế của dân tộc trên trường quốc tế. - Giữ gìn văn hóa dân tộc giúp xây dựng tình đoàn kết, thúc đẩy sự cố gắng phát triển đất nước. c. Mối quan hệ giữa hòa nhập và giữ gìn bản sắc. - Không đối lập, mà cần bổ sung lẫn nhau. - Hòa nhập mà không hòa tan: biết chọn lọc, tiếp thu cái hay cái đẹp, đồng thời giữ được những gì là tinh túy của dân tộc; tiếp thu cái mới, cái hiện đại trên nền tảng văn hóa dân tộc. 3. Phản bác ý kiến trái chiều - Ý kiến trái chiều: Có người cho rằng việc gìn giữ bản sắc văn hóa là quan trọng nhất, còn việc chủ động học hỏi để hòa nhập với thế giới chỉ là điều thứ yếu. - Phản biện: + Đây là ý kiến không đúng. + Nếu chỉ chăm chăm giữ gìn bản sắc mà không chủ động học hỏi thì cũng giống như xây một tường thành kín mít, không đón được ánh sáng mới. Dễ trở nên bảo thủ, lạc hậu, khó thích nghi với sự thay đổi liên tục của thế giới, thiếu kĩ năng toàn cầu, mất đi cơ hội phát triển bản thân và đóng góp cho đất nước. + Hòa nhập không có nghĩa là hòa tan – đó là sự tiếp thu có chọn lọc và bản lĩnh cá nhân sẽ giúp phân biệt rõ đâu là giá trị cần giữ, đâu là thứ nên thay đổi. 4. Bài học nhận thức, hành động. - Nhận thức: Học sinh cần hiểu rằng hòa nhập là xu thế tất yếu của thời đại, nhưng phải đi kèm với sự gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa dân tộc. - Hành động: + Chủ động học ngoại ngữ, kỹ năng mềm, tìm hiểu, tiếp thu có chọn lọc văn hóa thế giới. + Đồng thời, trau dồi kiến thức về lịch sử - văn hóa Việt Nam, giữ gìn tiếng Việt, tôn trọng truyền thống dân tộc... III. Kết bài: - Khẳng định lại tính đúng đắn của lựa chọn. - Liên hệ bản thân - Đưa ra thông điệp.
|

