Đề thi học kì 1 Văn 9 - Đề số 7Tải về I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 điểm) Đọc đoạn trích sau: SA MẠC CỦA TUỔI THƠ (trích) (Dương Thị Xuân Quý) Xa thôn Hương đã mười năm, nhưng tôi vẫn không thể quên cái xóm nhỏ ấy: những mái nhà nhấp nhô ven sông Chu. Nước sông bốn mùa xanh biêng biếc... Dạo kháng chiến gia đình tôi tản cư đến, và tôi được ở đó nhiều năm.
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
Đề thi I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 điểm) Đọc đoạn trích sau: SA MẠC CỦA TUỔI THƠ (trích) (Dương Thị Xuân Quý) Xa thôn Hương đã mười năm, nhưng tôi vẫn không thể quên cái xóm nhỏ ấy: những mái nhà nhấp nhô ven sông Chu. Nước sông bốn mùa xanh biêng biếc... Dạo kháng chiến gia đình tôi tản cư đến, và tôi được ở đó nhiều năm. Thôn Hương nằm gọn trong vòng ôm của con đê cao. Con đê như một đường thêu xanh, xuyên qua lũy tre và bãi dâu bát ngát. Thôn Hương còn có một dải cát mênh mông trồi lên cao, vượt khỏi bãi dâu và mặt đê. Đó là nơi tôi có nhiều kỷ niệm trong những ngày bé thơ. Về thôn Hương, đi từ phía nào lại, cũng nhìn thấy bãi cát đó. Trông xa, nó nổi lên như hòn đảo trắng, lóng lánh dưới nắng. Đến gần, mới nhận ra những cồn cát nhỏ mấp mô trên bãi sóng như làn sương. Bọn trẻ con trong làng gọi bãi cát ấy là “sa mạc”. Vì tuy ở ven sông, nhưng bãi không hề đọng một giọt nước. Cả lúc ngập lụt, nó vẫn trơ trơ như hòn đảo khô không². Ngày nắng, cát nóng hầm hập như một cái chảo rang. Mùa hanh, từng cơn gió khô khan như chiếc chổi vô hình quét lên những cồn cát, làm cả vùng trời bụi mù mịt. (Lược bớt một đoạn: Nhân vật “tôi” nhớ lại những kỷ niệm tuổi thơ cùng cô bạn tên Khếnh và các bạn chơi trò “mở chiến dịch tấn công” giành nhau từng cồn cát. Cứ vài năm, nước sông Chu lại dâng cao nhấn chìm bãi dâu của thôn, duy chỉ bãi “sa mạc” (bãi Nhiên) là nơi duy nhất không bị nước. Các cụ già trong thôn cứ ước ao giá trồng được dâu ở bãi Nhiên. Mùa hè năm nay, “tôi” có dịp trở lại thôn Hương liền nhận ra “sa mạc” năm xưa đã xanh mát những luống dâu, vồng khoai lang dây đỏ tía.) Tôi đang đưa mắt tìm bạn bè cũ thì gặp Khếnh. Khếnh vừa đổ xong một sọt đất phù sa vào gốc dâu. Chúng tôi ôm chầm lấy nhau, cười nói líu tíu. Vẫn cái dáng thâm thấp, vẫn khuôn mặt bầu bĩnh với đôi mắt tròn trong suốt như thủy tinh ẩn dưới hàng mi dài và đôi lông mày cong cong. Vẫn thế, nhưng Khếnh lớn hơn nhiều, người to ra, béo lẳn. Vai tròn, bắp chân chắc nịch. Có tiếng nói từ phía sau: - Gớm, bà bí thư chi đoàn đón “đại biểu tham quan” thân mật quá. Khếnh vừa cười vừa nói một câu pha trò, làm tôi chả hiểu gì sất³: - Cái anh chàng “thợ giày” kia! Ai khảo mà xưng thế! Rồi Khếnh phát mạnh vào vai tôi: - Chà, cậu lớn khiếp! Sao bấy lâu không về chơi? Mẹ mình vẫn nhắc cậu. Bà cụ hồi này khỏe ra... [...] Nghe tôi nhắc lại cái tên “sa mạc”, Khếnh nheo mắt cười. Nụ cười như có ý bảo : “Mình vẫn còn nhớ những ngày ấy”... Rồi Khếnh vui vẻ trả lời: - Dạo này thanh niên chúng tớ mở “chiến dịch 15 ngày” đắp phù sa thêm cho dâu đây mà. Cậu nhìn bãi dâu có thấy khoái không? Mới hai đợt “chiến dịch” thôi nhé. - Hai đợt là thế nào? – Tôi đùa. – Ngày trước bọn mình cũng “mở chiến dịch” ở bãi “sa mạc” này bao lần rồi còn gì! Khếnh tròn mắt búng vào tai tôi mấy cái liền. Và thế là Khếnh lôi tôi vào bãi dâu. Vừa đi, Khếnh vừa liên tiếp nói: - Ấy, bây giờ cũng vẫn bọn “nhóc” ngày xưa cả. Chỉ thiếu mấy cậu đi thoát ly, đi nghĩa vụ. Còn tất cả chúng tớ đều bắt tay cải tạo bãi Nhiên này. Cậu biết không? Mới một năm thôi đấy. Đầu tiên chúng tớ đem cày xốc cát hai lần. Luống cát cao võng lên rãnh dài, sâu hút xuống như “giao thông hào” ngày bé của chúng mình ấy. Ừ, xong rồi gánh đất phù sa úp kín rãnh, cứ y như thợ bê tông đổ móng nhà. Sảo⁴ nọ liền sảo kia. Bùn đất quánh như sáp, khó đào lắm, nhưng cắm hom dâu xuống, dâu, chứ đá cũng phải nảy mầm. Chả mấy lâu, dâu xanh phơi phới, bốn tháng sau đã có dấu chân... Giọng Khếnh sôi nổi. Niềm vui lớn xen cả vẻ tự hào lộ rõ trên nét mặt rạng rỡ, có làn môi chúm chím như đang cười. (50 truyện ngắn chọn lọc, NXB Thanh niên, Hà Nội, 2004, tr. 371 - 376) 1 Sa mạc của tuổi thơ (nằm trong nền văn xuôi những năm 1960) thể hiện được công cuộc lao động, sản xuất của thanh niên, chủ yếu là phụ nữ nông thôn, đang góp phần xây dựng cuộc sống mới. 2 Khô khỏng: khô cứng, giòn, không còn chút hơi ẩm nào. 3 Sất (khẩu ngữ): từ biểu thị ý nhấn mạnh sự phủ định hoàn toàn. 4 Sảo: rổ nông lòng, nan to, mắt rất thưa. Thực hiện các yêu cầu: Câu 1 (0,5 điểm). Xác định ngôi kể của đoạn trích trên. Câu 2 (0,5 điểm). Chỉ ra kiểu câu (xét theo mục đích nói) của câu văn sau: “Trông xa, nó nổi lên như hòn đảo trắng, lóng lánh dưới nắng.”. Câu 3 (1,0 điểm). Theo đoạn trích, vì sao bọn trẻ con trong làng gọi bãi cát ở thôn Hương (bãi Nhiên) là “sa mạc”? Khếnh và nam nữ thanh niên trong thôn đã làm gì để “sa mạc” năm xưa giờ đây xanh mát những luống dâu, vồng khoai lang dây đỏ tía? Câu 4 (1,0 điểm). Các chi tiết miêu tả ngoại hình Khếnh trong đoạn trích giúp em hiểu gì về nhân vật này? Câu 5 (1,0 điểm). Hãy nêu bài học tâm đắc nhất em rút ra từ việc đọc đoạn trích trên và lí giải trong khoảng 3 - 5 câu văn. II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm). Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích đặc điểm nhân vật Khếnh trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu. Câu 2 (4,0 điểm). Thanh niên thôn Hương tiêu biểu cho những người khai hoang, cải tạo đất đai, đưa khoa học kĩ thuật vào đời sống sản xuất,... mang tới cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân miền Bắc lúc bấy giờ. Theo em, cần thay đổi hoàn cảnh để trở nên tốt hơn hay thay đổi bản thân để thích nghi với hoàn cảnh? Viết bài văn nghị luận (khoảng 400 chữ) trả lời cho câu hỏi trên. Đáp án PHẦN ĐỌC HIỂU (4.0 điểm) Câu 1. Phương pháp: Chú ý lời của người kể chuyện Lời giải chi tiết: Ngôi kể thứ nhất. Câu 2. Phương pháp: Vận dụng kiến thức về các kiểu câu phân loại theo mục đích nói Lời giải chi tiết: Xét theo mục đích nói, câu văn: “Trông xa, nó nổi lên như hòn đảo trắng, lóng lánh dưới nắng.” thuộc kiểu câu trần thuật (câu kể). Câu 3. Phương pháp: Đọc kĩ đoạn trích và xác định lí do Lời giải chi tiết: - Theo đoạn trích, bọn trẻ con trong làng gọi bãi cát ở thôn Hương (bãi Nhiên) là “sa mạc” vì: tuy ở ven sông, nhưng bãi không hề đọng một giọt nước. Cả lúc ngập lụt, nó vẫn trơ trơ như hòn đảo khô không. Ngày nắng, cát nóng hầm hập như một cái chảo rang. Mùa hanh, từng cơn gió khô khan như chiếc chổi vô hình quét lên những cồn cát, làm cả vùng trời bụi mù mịt. - Khếnh và nam nữ thanh niên trong thôn đã cải tạo bãi Nhiên (gánh đất phù sa úp kín các rãnh cát, gốc dâu) để “sa mạc” năm xưa giờ đây xanh mát những luống dâu, vồng khoai lang dây đỏ tía. Câu 4. Phương pháp: Chú ý các chi tiết miêu tả ngoại hình Khếnh Lời giải chi tiết: Các chi tiết miêu tả ngoại hình Khếnh trong đoạn trích giúp em hiểu về nhân vật: - Khếnh có nét trong sáng, đáng yêu, ... của một cô gái trẻ; - Khếnh còn có nét khỏe khoắn, mạnh mẽ, vững vàng,... của người lao động Câu 5. Phương pháp: Nêu được bài học tâm đắc cho bản thân. Lí giải thuyết phục Lời giải chi tiết: Từ đoạn trích “Sa mạc của tuổi thơ”, em học được bài học về tinh thần lao động và ý chí cải tạo thiên nhiên. Con người có thể biến vùng đất khô cằn thành đồng ruộng xanh tốt nếu có niềm tin, đoàn kết và sự nỗ lực không ngừng. Bãi cát “sa mạc” năm xưa được phủ xanh là minh chứng cho sức mạnh của con người khi dám thay đổi và hành động. Bài học ấy nhắc em phải luôn kiên trì, chủ động trong cuộc sống để biến điều không thể thành có thể. PHẦN VIẾT (6.0 điểm) Câu 1. Phương pháp: Giới thiệu nhân vật Khếnh trong đoạn trích “Sa mạc của tuổi thơ" (Dương Thị Xuân Quý), nêu khái quát ấn tượng về nhân vật. - Chỉ ra được đặc điểm của nhân vật Khếnh dựa trên các bằng chứng trong đoạn trích (ngoại hình; hành động, cử chỉ; ngôn ngữ; ...); nhận xét, đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn; nêu ý nghĩa của hình tượng nhân vật; - Đánh giá về nhân vật. Lời giải chi tiết: Trong đoạn trích của truyện ngắn "Sa mạc tuổi thơ", nhân vật Khểnh được tác giả miêu tả là một nhân vật tiêu biểu đại diện cho tầng lớp thanh niên khi hòa bình được lặp lại. Đầu tiên, Khểnh được miêu tả là một cô bé vui tính, hồn nhiên và có mối quan hệ mật thiết với tuổi thơ của tác giả. Trong hồi ức của nhân vật "tôi", Khểnh là một cô bạn đã chơi cùng từ bé gắn với trò chơi "mở chiến dịch" trên những cồn cát "sa mạc" đầy nắng gió. Lớn lên, khi nhân vật "tôi" đi xa về, Khểnh vẫn giữ được nét ngây thơ, hồn nhiên ấy. Tính cách ấy của nhân vật này được miêu tả qua những chi tiết như: "Chà, cậu lớn khiếp! Sao bấy lâu nay không về chơi" hay "Khềnh tròn mắt búng vào tai tôi mấy cái liền",... Tất cả những chi tiết trên đều cho thấy Khểnh là cô bạn dễ thương, luôn gìn giữ những kỉ niệm thuở nhỏ. Thứ hai, nhân vật Khểnh hiện lên với tinh thần trách nhiệm, đầy nhiệt huyết của thế hệ thanh niên. Cô bé ấy giờ đây không chỉ thay đổi về thể chất ("vai tròn, bắp chân chắc nịch") mà còn thay đổi về cả ý chí lẫn tinh thần lao động. Khểnh hiện đang cùng thanh niên tham gia phong trào cải tạo đất, biến bãi "sa mạc" khô cằn thành vùng dâu tươi tốt. Qua những chi tiết trên, có thể thấy nhân vật Khểnh là nhân vật tiêu biểu, đại diện cho thế hệ trẻ nông thôn sau chiến tranh với sự hồn nhiên, tình cảm, giàu tinh thần trách nhiệm và đầy sức sống. Tác giả đã khắc họa nên nhân vật bằng ngôn ngữ linh hoạt, lối văn sinh động cùng những câu từ đầy cảm xúc. Qua đó khiến người đọc cảm nhận được sức cháy, sức lửa của thế hệ trẻ trong chương mới của đất nước. Câu 2. Phương pháp: * Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận, nêu khái quát quan điểm của cá nhân về vấn đề. * Thân bài: - Giải thích vấn đề - Bàn luận: + Thể hiện quan điểm của người viết, có thể lựa chọn một trong hai ý kiến hoặc kết hợp cả hai. Gợi ý: - Thay đổi hoàn cảnh để bản thân tốt hơn: “cải tạo” hoàn cảnh để phục vụ cuộc sống, sự phát triển, hạnh phúc,... của mình. Đây là cách giúp con người chiến thắng hoàn cảnh. - Thay đổi bản thân để thích nghi với hoàn cảnh: giúp con người trở nên chủ động, tiến bộ hơn, tạo ra những giá trị tích cực trong cuộc sống. Việc đối mặt và thay đổi là cách để sống một cuộc đời ý nghĩa hơn. + Mở rộng, phản đề, đối thoại với ý kiến trái chiều (HS nêu bằng chứng phù hợp) * Kết bài: Khẳng định ý kiến về vấn đề, rút ra bài học cho bản thân. Lưu ý: Thí sinh có thể bày tỏ suy nghĩ, quan điểm riêng nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật. Lời giải chi tiết: Trong cuộc sống, ai cũng mong muốn mình được sống trong hoàn cảnh thuận lợi, tốt đẹp. Tuy nhiên, khi đối diện với những khó khăn, mỗi người lại có lựa chọn khác nhau: thay đổi hoàn cảnh để tốt hơn hay thay đổi bản thân để thích nghi với hoàn cảnh. Theo em, cả hai đều cần thiết, nhưng thay đổi bản thân là điều quan trọng và thiết thực hơn.
|

