Khổng Lồ đúc chuôngVào đời nhà Lý, có một người gọi là Khổng Lồ. Nhìn thấy thân thể ông, các tay lực sĩ trong triều, ngoài quận đều khiếp sợ mặc dầu ông chưa từng đọ sức với ai. Từ trẻ Khổng Lồ đã đi tu, ông thường đi chu du thiên hạ. 0:00
/
7:42
Chọn giọng đọc
Đọc truyện: Khổng Lồ đúc chuôngVào đời nhà Lý, có một người gọi là Khổng Lồ. Nhìn thấy thân thể ông, các tay lực sĩ trong triều, ngoài quận đều khiếp sợ mặc dầu ông chưa từng đọ sức với ai. Từ trẻ Khổng Lồ đã đi tu, ông thường đi chu du thiên hạ. Vật tùy thân của ông có một cây gậy sắt nặng không thể tưởng tượng được. Lại có một cái đãy rất mầu nhiệm. Đãy trông không khác gì những đãy thường nhưng có thể bỏ lọt vào đó bao nhiêu đồ vật to lớn, cồng kềnh. Dù chất chứa thế nào, đãy cũng không đầy và cũng không to thêm. Buổi ấy, nhà vua cần rất nhiều đồng để đúc các khí vật thờ Phật, nhưng ngặt vì ở đất Việt không có đồng đen. Nghe tiếng Khổng Lồ, nhà vua cho triệu đến kinh nhờ sư đi sang Trung Quốc quyên giáo. Khổng Lồ nhận lời và xách đãy đi về phương Bắc. Sau bao nhiêu ngày trèo non lội suối, Khổng Lồ đã đến kinh đô Trung Quốc. Thấy một nhà sư to lớn xin vào yết kiến, vua Trung Quốc lấy làm lạ, hỏi: - Hòa thượng từ phương nào lại và đến đây làm gì? Ông đáp: - Chúng tôi đến cầu bệ hạ một ít đồng đen để mở rộng Phật pháp trong nước Đại Việt. Vua ngỡ là có nhiều người theo ông nữa, bèn hỏi: - Quý quốc cần dùng bao nhiêu đồng? Hòa thượng đem sang cả thảy bao nhiêu đồ đệ? Khổng Lồ giơ đãy lên và tâu: - Kẻ hạ thần chỉ sang có một mình và chỉ xin một đãy này là đủ. Thấy cái đãy bé tí, vua Trung Quốc mỉm cười: - Hòa thượng có lấy cả trăm đãy, trẫm cũng vui lòng huống gì là một đãy. Đoạn vua sai nội thị mang lệnh chỉ cho quan giữ kho, mở kho đồng đen cho Khổng Lồ muốn lấy bao nhiêu thì lấy. Trước khi vào kho, phải đi qua một cái sân rộng. Ở đó có một cái nền gạch, trên nền dựng tượng một con trâu bằng vàng to như một cái nhà, sáng chóe cả một vùng trời đất. Quan giữ kho chỉ vào trâu, hỏi đùa Khổng Lồ: - Hòa thượng có cần dùng cả con trâu này không? - Không, tôi chỉ cần một ít đồng đen mà thôi. Rồi đó Khổng Lồ trút tất cả đồng trong kho lọt thỏm vào đãy của mình mà đãy vẫn còn vơi. Đoạn, Khổng Lồ mắc đãy vào một đầu gậy, quảy về nước. Quan giữ kho thấy hết nhẵn cả đồng, vội vã đem sự tình tâu báo cho vua mình biết. Vua Trung Quốc không ngờ có sự phi thường như thế, lấy làm hối tiếc, bèn sai năm trăm quân sĩ đuổi theo Khổng Lồ. Lúc ấy mặc dầu gánh nặng đè lên vai, nhưng sư cũng đã đi được ba trăm dặm đường. Vừa đến một khúc sông rộng, ông bỗng nghe có tiếng reo dậy trời ở sau lưng. Ông ngoảnh cổ lại, thấy bụi bốc mịt mù, đoán biết là vua Trung Quốc đã cho quân đuổi theo. Ông lật đật thả chiếc nón tu lờ xuống nước, đặt đãy lên, rồi vừa bơi vừa đẩy qua sông. Bọn quân sĩ vừa đến bờ thì Khổng Lồ đã tiến ra giữa sông rộng. Bọn chúng đánh lừa nói rằng: - Hòa thượng hãy chờ một tí, hoàng đế cho chúng tôi khiêng giúp đồng và hộ tống ngài về. Nhưng Khổng Lồ nói vọi lên: - Bần tăng gửi lời về cám ơn lòng tốt của Hoàng đế. Còn như cái đãy này để mặc bần tăng mang lấy, đâu dám làm phiền đến thiên sứ. Bọn lính biết là không thể đuổi nổi bèn quay trở lại. Sau đó, Khổng Lồ cứ theo dọc bờ biển đi bộ lần về phương Nam. Đến một cửa sông, ông gặp một chiếc tàu lớn sắp sửa kéo buồm sang nước Việt. Khổng Lồ đặt đãy ở bến, đến gặp người chủ tàu xin cho đi nhờ. Chủ tàu thấy một người hòa thượng với một chiếc đãy ước lượng không nặng thêm cho tàu bao nhiêu, nên vui lòng cho ông đi. Nhưng khi một thủy thủ xuống bến xách đãy hộ cho nhà sư lên tàu thì anh ta cảm thấy chưa bao giờ có những vật nặng đến như thế. Người thứ hai nữa xuống giúp cũng chịu. Người thứ ba, người thứ tư cho đến khi tất cả mọi thủy thủ trên tàu cùng hè nhau khiêng, ai nấy cũng đều phải lắc đầu vì chiếc đãy vẫn không nhúc nhích. Bấy giờ Khổng Lồ ở trên tàu xuống, cười và bảo: - Để bần tăng tự mang lên cho, không phiền đến các người. Nói rồi một tay xách đãy, một tay cầm nón và gậy bước lên tàu trước con mắt kinh ngạc của mọi người. Thấy tàu quá nặng nước mấp mé then, mọi người ngần ngại không dám nhổ neo. Khổng Lồ bảo họ: - Các người chớ ngại, ta quyết không để cho tàu chìm đâu. Thuận buồm xuôi gió, tàu rẽ nước đi băng băng. Được mấy ngày bỗng xảy ra một trận phong ba dữ dội. Một con ngô công mình dài trăm trượng miệng há đỏ như lửa đang vẫy vùng giữa sóng gió tiến đến toan nuốt cả tàu. Mọi người ngồi trên chiếc tàu chòng chành, vô cùng kinh sợ. Khổng Lồ nói to: - Các người cứ ngồi yên, mặc ta diệt trừ con quái vật! Nói đoạn, sẵn có quả bí lớn, ông cầm lấy, đứng ở mũi tàu ném vào miệng ngô công. Ngô công vừa đớp lấy thì ông đã nhảy xuống nước cầm gậy đánh vào mình nó. Ngô công chạy không kịp bị gãy xương, đứt làm ba đoạn và hiện thành ba hòn đảo nổi lên giữa biển. Ngay sau đó, sóng gió yên lặng, tàu lại đi một mạch về tới đất Việt. Về tới kinh đô, Khổng Lồ vào chầu vua và kể lại mọi việc. Vua sai sư đem đồng ra đúc bốn thứ bảo khí thờ Phật để cho mọi người ngưỡng mộ và lưu truyền lâu dài lại đời sau. Khổng Lồ bèn cho gọi bao nhiêu thợ đúc tài giỏi trong nước đến, rồi mở đãy lấy đồng chia làm bốn phần. Đầu tiên ông đúc ra một cái tháp cao 9 tầng gọi là tháp Báo Thiên. Tháp đúc xong, hiện ra giữa kinh thành vòi vọi, đứng đâu cũng thấy. Khổng Lồ lại đúc một tượng Phật cao 6 trượng, một cái đỉnh to vừa bằng 10 người ôm. Rồi còn lại bao nhiêu đồng, Khổng Lồ cho đúc một quả "Hồng chung"... Chuông đúc xong to lớn không thể tưởng tượng được, đến nỗi khi đánh hồi đầu tiên, tiếng ngân vang khắp bốn cõi, vang sang đến tận bên Trung Quốc. Lại nói chuyện con trâu vàng nằm trước kho đồng của vua Trung Quốc khi nghe tiếng chuông, nó tự nhiên như được thức tỉnh dậy. Vì đồng đen là mẹ của vàng cho nên do tiếng ngân, nó biết là mẹ nó đã ở nước Việt. Nó bèn đứng dậy, vươn người rồi ba chân bốn cẳng chạy một mạch sang Nam, không một sức nào có thể cản nổi. Cuối cùng nó tìm đến quả chuông do Khổng Lồ mới đúc, hôn hít hồi lâu rồi nằm xuống bên cạnh. Thấy việc không ngờ lại xảy ra như thế, Khổng Lồ tự nghĩ nếu để chuông lại thì mỗi lần đánh chuông, vàng trong bốn biển sẽ quy tụ cả vào nước mình, mà đã như thế thì sẽ rất nguy hiểm vì sẽ gây hiềm khích với tất cả mọi nước. Ông bèn tâu vua xin đem quả chuông ném cho mất tích để tránh một cuộc đao binh tai hại có thể xảy tới. Nhận thấy lời tâu có lý, vua đành phải đồng ý. Ngày ném, Khổng Lồ đứng trên núi xách quả chuông vứt xuống hồ Tây. Chuông bị tung lên không, bay ra giữa hồ, vang lên một tiếng rất dữ dội. Con trâu vàng nghe tiếng, vội theo mẹ nó, nhảy ngay xuống hồ. Từ đó về sau, thỉnh thoảng những lúc thanh vắng, người ta vẫn thấy quai chuông nổi lên mặt nước. Còn con trâu thì đôi lúc lên bờ hồ đi dạo, hễ thoạt thấy bóng người là lặn xuống ngay. Cũng vì câu chuyện trên mà hồ Tây còn có tên là vực Kim Ngưu (Trâu Vàng). Riêng Khổng Lồ về sau được thợ đồng thờ làm Thần nghề đúc đồng. Bài học rút raTài năng vì mục đích cao cả
Lòng dũng cảm và trí tuệ
Sự hy sinh vì hòa bình
Đố vui qua truyện Khổng Lồ đúc chuông
|
